Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu

BÌNH THƠ:

Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh (Chế Lan Viên)

Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu

Đánh trận giặc cờ lau.

Thế mà không đâu

Gặp Thập Nhị sứ quân đầu rừng cuối quận

Thành ra người dẹp loạn

Rồi làm tướng làm vua

Lắm chuyện nhức đầu

Cho tôi về với cành lau

Vàng vọ

Về với con trâu nghé ngọ

Có cặp sừng bỡ ngỡ

Chiều buồn không biết cọ vào đâu?

Đã lâu không nghe hồn lau nữa

Xa tiếng gió xạc xào

Xa mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ…

Chỉ nghe danh vọng ầm ào

Vinh quang xí xố

Hoa Lư ở đâu?

Hoa lau ở đâu?

Hồn lau ở đâu?

Hồn ta ở đâu?

1988

Chế Lan Viên

“Tôi chỉ là nhà thơ cưỡi trâu…”, cuối cùng thì Chế Lan Viên đã trở về với mặt đất, với không gian làng quê, với con trâu giữa bạt ngàn hoa lau dân dã. Nhưng không phải trở về làm chú mục đồng nghêu ngao vô tư, vẫn còn đó một ý thức về bản thân – nhà thơ! Để lại tiếp tục làm một hành trình siêu tưởng hóa thân thành vua Đinh thuở chăn trâu cắt cỏ “đánh trận giặc cờ lau” mà nói chuyện của thời đại mình…

Hành trình trở về ấy hơn nửa thế kỷ, từ buổi ban đầu cậu học sinh mười bảy tuổi đã tự nhận mình mang tiền kiếp dân Chàm khóc than cho một dân tộc “điêu tàn”, ngạo nghễ “ta nằm ở giữa cân trời đất – khối ngọc chưa nghiêng một hướng nào”! Đến thời Cách mạng tháng Tám, Chế đã hòa vào dàn đồng ca thời đại, phủ nhận quyết liệt cái Tôi lãng mạn, sung sướng và tự hào “Ta là Ta mà vẫn cứ mê Ta”! Để rồi sau bao thăng trầm biến động, ngơ ngác trở về tìm con người bản thể, ông chợt nhận ra sau bao năm tháng cất giọng hùng tráng và say sưa, mình đã mất đi bao hồn nhiên thuở cũ! Khi con người chạm ngưỡng ranh giới sống – chết thường sống thật với lòng mình nhất, để nói những lời thành thật. Xét ở phương diện này, nhà thơ có thể không hổ thẹn với những gì mình viết ra vì tất cả đều là thật. Thời “Điêu tàn”, Chế đã ngoảnh nhìn quá khứ để ngẫm về một thân phận trong sự tồn vong của một dân tộc để tiếc thương hoài niệm; chặng đường từ “Ánh sáng và Phù sa”, Chế đã nhập vào hiện thực máu lửa anh dũng của chính dân tộc Việt mình, trong tư thế “nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” để viết những vần thơ như mũi chông hòn đạn nhắm thẳng quân thù, không ngẫm ngợi nhiều cho sống – chết của cá nhân; và khi cuộc sống trở lại bình an, Chế mới thật sự có những phút giây sống cho riêng mình, sau khi đã qua bao trải nghiệm bể dâu:

Thế mà không đâu

Gặp Thập Nhị sứ quân đầu rừng cuối quận

Thành ra người dẹp loạn

Rồi làm tướng làm vua

Lắm chuyện nhức đầu

Rốt cuộc, bao nhiêu năm đóng vai kẻ khác, cuốn theo thời cuộc, thói quen ấy không dễ bỏ ngày một ngày hai nên kể cả khi quay lại “chầm chậm tới mình”, một lần nữa “nhà thơ cưỡi trâu” vẫn ngỡ mình là vua Đinh tìm về chốn cũ, tìm bạn mục đồng mà bỗng chốc thấy bơ vơ vì đã quá xa thuở hàn vi dân dã. Có còn tìm lại được gì chăng?

            Thì vẫn còn đó, vẹn nguyên: cành lau vàng vọ, con trâu nghé ngọ, tiếng gió, mùi bùn, mùi trâu, rơm rạ… Những hiện hữu của một thời quá vãng giúp kẻ trở về thảng thốt nhận ra mình đã quá vô tình! Như vua Đinh mải mốt trận mạc, mải dẹp loạn, làm tướng, làm vua không một phút rảnh rang trên hành trình bước lên đài danh vọng. Khi phải bận tâm “lắm chuyện nhức đầu”, thì có phút rảnh rang nào nhớ chút hương xa đồng nội!

            Ôi cái thuở “nhà thơ cưỡi trâu”, mới đẹp mới đáng luyến tiếc làm sao! Được thả mình mơ chiến trận oai hùng một cách hồn nhiên, giắt cờ lau để chúng bạn công kênh thán phục. Có con trâu bầu bạn, hát nghêu ngao, chuyện trò thủ thỉ, người và vật quyến luyến thân thương. Còn lúc trở về tìm lại, chợt nao lòng:

Cho tôi về với cành lau

Vàng vọ

Về với con trâu nghé ngọ

Có cặp sừng bỡ ngỡ

Chiều buồn không biết cọ vào đâu?

Không gian hiu hắt ngàn lau xào xạc, cả buổi chiều tiếng “nghé ngọ” vọng khắp như tìm kiếm lơ ngơ, đứa trẻ mục đồng năm xưa mải chơi lưu lạc phương nào để “cặp sừng bỡ ngỡ…không biết cọ vào đâu”? Có một tiếng nói nội tâm thôi thúc giục giã “cho tôi về…”, về để tìm lại chính mình của một thời xưa ấy! Khoảnh khắc hoài vọng ấy để chợt nhận ra tất cả “đã lâu…”, đã xa… đã cuốn đi tất cả những gì một thuở là của mình…

Như vua Đinh bị bao quanh bởi “danh vọng ầm ào, vinh quang xí xố”, nhà thơ chợt nhận ra cái vô nghĩa lý của trò chơi quyền lực, chán ngán và mệt mỏi bởi chúc tụng, ganh ghét, bon chen. Đối cực tâm trạng được hình thành trong khoảnh khắc phân thân giữa quá khứ – thực tại. Liên tiếp là những câu hỏi mang tính chất tự vấn, kiếm tìm:

Hoa Lư ở đâu?

Hoa lau ở đâu?

Hồn lau ở đâu?

Hồn ta ở đâu?

Chất suy tưởng trong thơ Chế Lan Viên đã phát huy cao độ hiệu quả thẩm mĩ trong đoạn kết đầy trăn trở này! Nhịp thơ riết róng, khắc khoải trong điệp khúc “…ở đâu?” lan tỏa nuối tiếc day dứt. Và liên tưởng điệp trùng nối kết thành không gian lung linh thực – ảo: Hoa Lư – hoa lau – hồn lau – hồn ta…Những nỗ lực kết nối để trở về với đất cũ, cảnh xưa. Tìm lại hồn xưa, đẹp xưa là để tìm lại một thời rất đẹp của hồn ta. Mỗi lời thơ thấm thía cảm giác của một người đã đánh mất quá nhiều, nhưng đọng lại là phút như gặp lại chính mình. Trở về với bản lai diện mục, nghĩa là chưa đánh mất chính mình, âu cũng là hạnh phúc!

           Quy Nhơn, ngày 2/12/2020                                                                 

TRẦN HÀ NAM

Về bài thơ NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI của Phạm Hổ

Tuổi thơ của chúng tôi khi cắp sách đến trường là đã biết đến Phạm Hổ với những bài thơ thiếu nhi in sâu vào tiềm thức:

Mười quả trứng tròn

Mẹ gà ấp ủ

Mười chú gà con

Hôm nay ra đủ…

Thậm chí khi về quê nội, tôi còn mang theo cuốn sách giáo khoa lớp 1 ngoài Bắc về như một kỷ niệm thiêng liêng để nhớ về một thời được cô khen vì đọc diễn cảm thơ hay. Nhiều bài thơ Phạm Hổ đến giờ vẫn thuộc vì sự thú vị của nó với một cậu bé, giúp khơi dậy trí tưởng tượng phong phú:

-Chị ơi vì sao

Hoa hồng lại khóc

–          Không phải đâu em

Đó là hạt ngọc

Người gọi là sương

Sao đem gửi xuống

Tặng cô hoa hồng

Nhắc lại như vậy để biết Phạm Hổ trong tâm trí của lũ chúng tôi thuở ấy là nhà thơ thuần túy viết cho thiếu nhi, được thiếu nhi yêu quý vì thơ ông gần gũi, hình ảnh ngộ nghĩnh, tư duy rất trẻ thơ… Và cũng vì thế, tủ sách nhà tôi vẫn giữ cuốn “Chuyện hoa chuyện quả” của ông mà thời ấy anh em tôi đọc làu làu.

Thế nhưng có một Phạm Hổ khác, khi tôi lớn lên và bắt đầu theo con đường của học sinh chuyên Văn. Đến lúc ấy mới biết và tự hào về một ông Phạm Hổ đồng hương Bình Định, lứa trên cha tôi 2 lớp ở College Qui Nhơn – ngôi trường đã có biết bao nhà thơ thành danh. Thầm nghĩ: chắc hẳn ông có những bài thơ thật hay về quê hương Bình Định, hay chí ít cũng là về quê hương miền Nam trong khoảng thời gian tập kết xa quê đằng đẵng…

Trên hành trình tìm kiếm thơ Phạm Hổ, tôi đã gặp được bài thơ NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI:

Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi

Những ngày xưa thân ái
Chắc hắn quên rồi
Riêng tôi, tôi nhớ:
Đồng làng mênh mông biển lúa
Sương mai đáp trắng cỏ đường
Hai đứa tôi,
Sách vở cặp chung
Áo quần nhàu giấc ngủ
Song song bước nhỏ chân trần
Gói cơm mo mẹ vắt sách tùng tơn
Nón rộng hỏng quai
Trong túi hộp diêm nhốt dế
Những ngày xưa êm đẹp thế
Không đem chung hai đứa một ngày mai

Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay
Tôi buồn tôi giận,
Đêm nay gặp hắn,
Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi

Xác hắn nằm bờ ruộng
Không phải hắn thưở xưa
Tôi cúi nhìn mặt hắn
Tiếc hắn thời ấu thơ.

Thú thực, thời ấy đọc bài thơ Phạm Hổ như vậy, với lũ chuyên Văn chúng tôi có thể coi như bắt được mạch cảm hứng bừng bừng khí thế tiến công cách mạng, có thể phân tích say sưa. Đúng ra tôi phải yêu, phải tìm cách đưa vào những bài viết phân tích thơ ca kháng chiến, thơ ca cách mạng, Nhưng không hiểu sao tôi cứ bị ám ảnh mấy câu như điệp khúc:

Tôi bắn hắn rồi

Những ngày xưa thân ái

Không ngăn nổi tay tôi

Cứ sợ sợ cái cảm giác ấy mà không cảm thụ nổi bài thơ. Tôi nhận ra một Phạm Hổ khác, quyết liệt, dữ dằn, không khoan nhượng trước “kẻ thù”, dù đã có thời ấu thơ những ngày xưa thân ái… Và ông Phạm Hổ – thơ thiếu nhi đậm đà thuở nhỏ cũng vụt biến khỏi tâm trí tôi, chỉ còn vệt mờ, đôi khi thuận miệng thì nhắc vậy thôi… Dù biết, về văn học thiếu nhi ông đã là một cây đa cây đề, sách của ông vẫn được trang trọng đặt trong tủ sách thiếu nhi nhà tôi ngang hàng với các truyện của Đoàn Giỏi, Nguyễn Huy Tưởng, Võ Quảng, Hà Ân…

Trải qua bao thăng trầm cuộc sống, tiếp xúc với giới văn nghệ, thỉnh thoảng lại nghe một số anh em cầm đàn hát “nhạc vàng” – cái thứ nhạc một thời chúng tôi được dạy là sản phẩm của một chế độ cũ đầy những tình cảm “ủy mị, sướt mướt, não nề”. Một lần tình cờ nghe bài hát có những câu thật quen mà ngay thời điểm ấy cũng chỉ tự nhủ chắc là vô tình trùng hợp:

Những ngày xưa thân ái

Anh gửi lại cho ai?

Gió mùa xuân êm đưa

Rung hàng cau lưa thưa

Anh cùng tôi bước nhỏ

Áo quần nhăn giấc ngủ

Đi tìm chim sáo nở

Ôi bây giờ anh còn nhớ…

Cũng thoáng qua vậy thôi, vậy mà cứ ám ảnh giai điệu ca từ bài hát, thỉnh thoảng nghêu ngao vô thức và liên hệ với bài thơ cùng tên của Phạm Hổ, để rồi chợt nhận ra mối liên hệ “áo quần nhàu giấc ngủ” và “áo quần nhăn giấc ngủ” không thể là ngẫu nhiên! Và tra cứu mới bật ra thú vị: hóa ra ông nhạc sĩ sáng tác bài này là Phạm Thế Mỹ, em ruột của Phạm Hổ. Bài hát của người em làm tôi không thể không đi tìm một ẩn số trong mối liên hệ với bài thơ của người anh. Và thú thực, ca từ bài hát có sức cuốn hút tôi bởi ẩn chứa nỗi đau quê hương mất mát, bạn bè sinh ly tử biệt, bộc bạch nỗi niềm day dứt của con người trong chiến tranh thật thấm thía:

Thời gian qua mau

Tìm anh nơi đâu

Tôi về qua xóm nhỏ

Con đò nay đã già

Nghe tin anh gục ngã

Dừng chân quán năm xưa

Uống nước dừa hay nước mắt quê hương?

Đau lắm chứ! Cái cảnh bạn bè thuở nhỏ chia thành hai chiến tuyến, huynh đệ tương tàn được cảm rõ nét trong bài hát, đau riêng mà cũng là nỗi đau chung dân tộc. Cảm hứng bài hát rõ ràng xuất phát từ bài thơ, nhưng tại sao nỗi đau Phạm Hổ khiến tôi có cảm giác sợ:

Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay
Tôi buồn tôi giận,
Đêm nay gặp hắn,
Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi

Xác hắn nằm bờ ruộng
Không phải hắn thưở xưa
Tôi cúi nhìn mặt hắn
Tiếc hắn thời ấu thơ.

Bài thơ được in trong tập Những ngày xưa thân ái (1957), bài hát viết năm 1965. Có một điểm gợn: thời điểm ấy, Phạm Hổ đang tập kết ngoài Bắc, hoạt động văn nghệ, là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam, vậy nhân vật tôi có phải chăng là tác giả mượn lời ai đó nói chăng? Qua tìm hiểu kỹ hơn, mới biết bài thơ được viết năm 1950 – trong kháng chiến chống thực dân Pháp – khi tác giả đang hoạt động tại liên khu 5. Có thể xem bài thơ này chính là thành tựu văn học đầu tiên đưa tác giả ra chiến khu Việt Bắc với tư cách nhà thơ trẻ. Thời điểm ấy, định hướng về một nền văn nghệ kháng chiến đã rõ nét, không có chỗ cho những tình cảm yếu mềm mang dấu ấn “tư sản rót”, “buồn rớt”… (chữ dùng của Hoài Thanh). Có lẽ vì thế mà bài thơ này cũng phải xác định rõ tinh thần chiến đấu, gạt bỏ tình riêng, dẫu cho kết bài là “Khóc hắn thời ấu thơ” thì cũng phải có hành động trước đó dứt khoát “Tôi bắn hắn rồi – Những ngày xưa thân ái – Không ngăn nổi tay tôi”. Hành động ấy là biểu hiện cao độ của lòng yêu nước, căm thù giặc và những kẻ “theo giặc”. Bài thơ là tiếng nói ở ngôi thứ nhất, những kỷ niệm của ngày –xưa-thân-ái rất đẹp ,rất riêng tư là phần đọng lại sâu nhất, nên khiến ta không khỏi đặt câu hỏi: phải chăng nhà thơ chính là người trong cuộc? Mà sự thật có xảy ra như vậy hay tưởng tượng thì bất cứ ai trong thực tế trải qua cũng không thể làm khác, khi hai người ở hai chiến tuyến đang chĩa súng vào nhau! Hành động “bắn hắn rồi” là nhân danh lòng yêu nước, nhân danh kháng chiến trừng trị kẻ theo giặc! Nhưng chủ thể là bạn thân thiết thời thơ ấu, bởi vậy “Khóc hắn thời ấu thơ” – theo văn bản ban đầu –  cũng rất tự nhiên dành cho người bạn thời ấu thơ giờ đã chối bỏ cội nguồn quê hương. Bản in sau này sửa chữ “khóc” thành chữ “tiếc” quả là… đáng tiếc! Bởi từ tiếc làm cho hành động và tâm trạng chịu sự chi phối tuyệt đối của lý trí, không cho phép đem nước mắt làm mềm yếu tâm hồn! “Tiếc” là từ nhấn mạnh người nhân danh lẽ phải, hành động vì chính nghĩa một cách lạnh lùng, Mà như vậy nhắc kỷ niệm , giành đặc quyền “riêng tôi, tôi nhớ” về một phía có vẻ không ổn! Phải chăng, sau này Phạm Thế Mỹ viết bài hát lấy ý từ bài thơ, đã lấy lại giọt nước mắt khóc người bạn thời ấu thơ để day dứt về “nước mắt quê hương” mang tâm trạng phản chiến của người bên kia chiến tuyến? Và bài thơ Phạm Hổ có tác động phần nào chăng cho tâm trạng phản chiến trong dòng nhạc của Phạm Thế Mỹ? Tôi lại chợt nhớ những câu thơ trong bài thơ Hoa vòi voi của nhà thơ Trần Huiền Ân viết ở miền Nam trong những ngày đất nước chia cắt hai miền, cũng nói về hoàn cảnh éo le tương tự, liệu có ảnh hưởng nào của Những ngày xưa thân ái chăng:

Nhưng thuở nào xa xưa giờ đã hết

Cuộc tương tàn hai đứa lại hai phe

Im lặng chia tay một chiều vãn tết

Muốn hé nên lời sợ chính mình nghe

Rồi sau đêm bờ sông bom đạn rú

Một thằng đi dọn máu xương tàn

Lật xác quân thù…Ôi…người bạn cũ

Giữa đám vòi voi hoa cuộn băng tang

(1965)

Chiến tranh phá hủy tất cả, kỉ niệm thời thơ ấu, quê hương,… khoét sâu bao nỗi đau nhức nhối. Tâm trạng đau đớn này, gạt đi những lời thể hiện tinh thần có phần lên gân, trở thành nỗi ám ảnh nhức nhối tâm can bao con người, bao gia đình. Xét từ góc độ này, bài thơ của Phạm Hổ có thể đã chạm vào điều phi lý của chiến tranh, nên lại đi tìm một điều có lý để biện bạch. Thời điểm ấy, không thể viết khác được.

Dẫu sao, đây cũng có thể xem là thi phẩm khởi đầu chặng đường thơ Phạm Hổ đến với văn học cách mạng. Và nhà thơ sau này đã chọn ngã rẽ hẳn sang văn học thiếu nhi. Phải chăng, đó cũng là cách để ông được sống mãi ký ức của thời ấu thơ, được yêu cỏ cây muông thú, đất trời, yêu bè bạn bằng tấm lòng thuần hậu trẻ thơ?

5. 2017

T.H.N

Đi tìm Gương mặt Loài Homo Sapiens trong tiểu thuyết Trần Như Luận


Gương mặt loài Homo Sapiens (NXB Hội Nhà văn, 2022) là tiểu thuyết thứ ba của nhà văn, bác sĩ Trần Như Luận. Một tiểu thuyết không dành cho mục tiêu giải trí trong dòng văn học bình dân, đại chúng (mass literature) mà dường như tác giả có tham vọng gửi vào đó những triết lí, tư tưởng tiếp thu từ tinh hoa văn hóa (elite culture), hướng tới đối tượng độc giả khó tính. Muốn đọc phải có một nền tảng tri thức, một bề dày hiểu biết nhất định về lịch sử, văn hóa, gắn với loài Homo Sapiens (loài người hiện đại).
Gương mặt loài Homo sapiens có vẻ quá ngưỡng tiếp nhận của số đông bạn đọc mặc dù tác giả cũng lồng vào chuyện tình yêu, tình báo cho tăng thêm phần hấp dẫn. Ở phương diện này Trần Như Luận không đạt được ý đồ cuốn hút người đọc vì ít nhiều những chuyện tình cảm hay tình báo chưa đủ ép-phê, thậm chí còn là những viên sạn trong mạch truyện chính: triết lý về cuộc sống qua nhân vật trung tâm Po Martin và hành trình cách mạng gắn với nhân vật huyền thoại của Công Gô – Patrice Lumumba những năm 60 của thế kỉ XX.
Tiểu thuyết xây dựng trên nền bối cảnh chính trị xã hội của đất nước Công Gô, trong quá trình đấu tranh chống lại thực dân Bỉ giành độc lập. Quá trình thoát khỏi chế độ thuộc địa Công Gô Bỉ gắn với vai trò của nhà cách mạng Patrice Lumumba, từ hình ảnh minh họa đến nội dung bao trùm câu chuyện đem lại cảm nhận ban đầu như là những ghi chép biên niên sử với tính chân xác của các sự kiện có thật, các nhân vật có thật liên quan quá trình hình thành đất nước Công Gô mới. Bởi vậy tác giả có hẳn một lời thưa cuối sách: Đây có thể xem là tiểu thuyết lịch sử…. Nhưng ẩn trong vỏ bọc lịch sử lại là một tuyến truyện khác, mang màu sắc huyền thoại về một thành viên của bộ tộc Balsensenla (Cười và Nhảy) – thể hiện dưới hình thức hồi ký. Hành trình ấy thực sự là một cuộc phiêu lưu vào thế giới của loài người Văn minh thuộc chủng homo sapiens. Những khám phá từ khi còn là cậu bé bị lạc bộ tộc của mình, từng bước lạc vào thế giới văn minh, cho đến khi thành một giáo sư khả kính sánh ngang các nhân vật thuộc loài homo sapiens! Lấy cái lõi là lịch sử, bằng tư duy tiểu thuyết, Trần Như Luận đã thực sự tạo được sức cuốn hút trong cách viết giả sử/ dã sử trong tiến trình chuyển tiếp từ hệ hình văn học hiện đại sang văn học hậu-hiện đại.
Po là người của bộ tộc Blasensenla (Cười và Nhảy). Câu chuyện của anh bắt đầu từ lúc bị tách khỏi gia đình, trở thành con nuôi của một nhà khảo cổ người Pháp hiền hòa. Kể từ đó có thêm họ Martin – như một minh chứng quá trình hòa nhập vào cuộc sống của những người da trắng thượng đẳng, ghi chép và nhận diện gương mặt của loài homo sapiens với những phát hiện lạ lùng và bất ngờ khi họ hoàn toàn trái ngược với lối sống của bộ tộc anh: yêu thiên nhiên, thích cười hát, nhảy múa và yêu thương gắn bó nhau. Hồi ký đưa người đọc trở về với thập niên 30, khi chủ nghĩa phát xít bành trướng, người dân châu Phi sống trong chế độ thuộc địa, tài nguyên thuộc về các thế lực thực dân Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, Bỉ…Những trang hồi ký của Po như một tư liệu tái hiện những năm tháng đau thương trong lịch sử nhân loại, khi triết lí của Nietzsche thành vũ khí tinh thần tối thượng để bè lũ phát xít Đức, Ý thực hiện chính sách bài Do Thái, tiêu diệt các chủng tộc “hạ đẳng”, gieo rắc cái chết và sự kinh hoàng cho thế giới. Góc nhìn lịch sử văn minh của một chứng nhân như Po đầy rẫy những điều trớ trêu, nghịch lí, bất thường đến khó tin. Những gì mà cậu thanh niên yêu thương lần lượt bị hủy diệt, bị tàn sát – một châu Âu đầy toan tính thật sự khác xa với cuộc sống tươi đẹp ở bộ tộc Blasensenla. Gương mặt loài Homo Sapiens hung hãn, hận thù, sẵn sàng tiêu diệt đồng loại, nhân danh những chủ thuyết tốt đẹp mĩ miều nhưng thực chất là chỉ phục vụ tham vọng điên rồ của một nhóm người cuồng sát. Trong những ngày tháng ấy, Po cũng chứng kiến bao nhiêu nỗ lực để sống, để thức tỉnh trong yêu thương, cưu mang đùm bọc nhau. Tác giả đã xâu chuỗi từ tư liệu lịch sử châu Âu – châu Phi tập trung khoảng từ 1933 – 1945, hồi ký Anne Frank trong trại tập trung phát xít, để lồng vào đó những suy nghĩ, cảm xúc của Po như một nhân chứng sống, khẳng định con người dù thuộc màu da, tôn giáo, sắc tộc nào cũng chỉ là nạn nhân đáng thương trong một xã hội văn minh đầy tham vọng quyền lực, và xung đột đẫm máu, chiến tranh là hệ quả tất yếu không thể tránh khỏi. Thực ra, nếu tiểu thuyết chỉ đơn thuần là những hồi ức kinh hoàng về chiến tranh thế giới II thì chỉ là sự gợi nhắc về những tiểu thuyết của E.Hemingway hay E.M. Remarque mà thôi. Dòng suy tưởng của tác giả đã nối kết với bối cảnh thứ hai, mang màu sắc một câu chuyện tình báo với những gì xảy ra tại đất nước Công Gô, quá trình đấu tranh của lãnh tụ Patrice Lumumba và âm mưu của các thế lực đế quốc can thiệp sâu vào nội bộ của một quốc gia. Tuyến truyện này có nhân vật Billy Smith – nhân viên tình báo CIA, người có nhiệm vụ giải mã hồi ký của Po – cất công vào vai anh Blaise người Pháp đến tận xứ Công Gô xa xôi, để rồi qua những trang hồi ký anh ta nhận ra sự thật, thức tỉnh lương tri. Lịch sử thế giới văn minh, với loài Homo Sapiens thống trị tiếp tục tái diễn những âm mưu, những tham vọng. Và thực chất đó là cuộc đối đầu giữa lương tri và tội ác, giữa phong trào đấu tranh giành độc lập với toan tính của những ông chủ muốn thống trị thế giới không phải bằng vũ khí như phát xít, không phải bằng sự bóc lột thống trị như chủ nghĩa thực dân cũ, mà giờ đã tinh vi hơn, như một quá trình lây lan những thói hư tật xấu của thế giới văn minh vào con người bản địa. Và thu hẹp lại ở một quốc gia như Công Gô, gắn trực tiếp với quá trình gã độc tài Mobutu thâu tóm thành quả cách mạng vĩ đại, sát hại lãnh tụ cách mạng Patrice Lumumba. Các sự kiện chồng lấn lên nhau, đan xen hiện tại và quá khứ, cái đang diễn ra và trải nghiệm lịch sử, như một xác quyết về mối liên hệ có tính biện chứng, giúp nhận diện rõ gương mặt loài homo sapiens! Tác giả tiểu thuyết dường như đã đúc kết được những nét chính, từ bản thân của các sự kiện được kể lại, “bảy phần thực ba phần hư” trong suốt 54 chương tiểu thuyết. Suy ngẫm ấy không dành cho một dân tộc, quốc gia, châu lục riêng rẽ nào, mà dường như là vấn đề mang ý nghĩa toàn cầu: các chủ thuyết ngụy trá, khát vọng hòa bình tự do độc lập của các dân tộc bị áp bức, sức mạnh của tình yêu thương con người, sự tập hợp lương tri…. Không khỏi có những vấn đề quá sức khái quát của người viết, nhưng điều rõ ràng nhất tác phẩm này mang lại chính là sự nhất quán trong tư tưởng: chỉ sống có lương tri, lòng nhân đạo, sự tỉnh táo thì con người mới tạo dựng nên một thế giới văn minh đúng nghĩa. Homo Sapiens có những trang sử đáng hổ thẹn, với chiến tranh hận thù giết hại đồng loại, sự tham lam tàn ác vô độ của những ông chủ muốn đè đầu cưỡi cổ con người không cùng đẳng cấp màu da…Trần Như Luận có lẽ chịu ảnh hưởng tư tưởng M. Ghandi – đấu tranh ôn hòa và cả triết lí phương Đông của Đạo giáo Lão tử – thuyết vô vi thuận theo tự nhiên.
Những phát ngôn của nhân vật Po Martin được tác giả trích dẫn như một định hướng cách tiếp cận tác phẩm. Từ lời đề từ: “Ở nhiều nơi, kẻ ác kết bè kết lũ mặc sức hoành hành; những người hiền lương thường thấp cổ bé họng, sống trầm tư, đơn lẻ và phản ứng muộn” cho đến lời ghi bìa trong trang cuối sách: “Lắm lúc chỉ vì suy nghĩ khác nhau mà người ta đối xử với nhau thật tệ hại; họ sinh ra hiềm khích nhau, ẩu đả nhau, thậm chí giết hại nhau một cách dã man. Do đó, có thể nói, trong lịch sử loài homo sapiens, sự hợp nhất của những cái dị biệt được kiến tạo một cách cởi mở, thân thiện, cũng như sự chấp nhận và tôn trọng những cái khác biệt chính là nền móng của sự sinh tồn và phát triển vậy”. Những triết lí ấy của nhân vật đúc rút ra từ những biến cố cuộc đời, những tổn thương chí mạng, những ký ức hãi hùng mà Po chứng kiến ở loài homo sapiens: vụ cướp của giết người làm thiệt mạng nhà khảo cổ Henry người Pháp, lũ cướp được bao che bởi đám cảnh sát thực dân Anh ở Mombasa để Po nhận bài học đầu tiên về công lí trong tay kẻ mạnh; cậu bé lớn lên cùng nhận thức về nỗi đau khổ của nhân loại từ cả hai phía: sự dã man mông muội của thổ dân và sự thâm độc xảo quyệt của những kẻ muốn làm chúa tể thiên hạ. Tất cả đều nhân danh sự trong sạch, thánh thiện, thuần khiết chủng tộc. Gương mặt loài homo sapiens có những kẻ quái đản như Mussolini, Hitler, Nietzsche…có khả năng lừa mị cả một dân tộc, khoác tấm áo triết học phi đạo lí, nhưng lại là những kẻ bệnh hoạn trong lối sống và tư tưởng. Đáng sợ là trong thời thanh niên của Po, những con người thông minh, chính trực, chuộng công lí, giàu lòng nhân ái lần lượt bị sát hại, lăng nhục trong các cuộc thanh trừng đẫm máu. Ngay cả mối tình băng thanh ngọc khiết cậu bé Po dành cho cô bé Anne Frank cũng tan vỡ vì chính sách bài Do Thái của Hitler. Hành trình dong ruổi từ Pháp sang Hà Lan, rồi sang tận Việt Nam và kết thúc với cuộc hôn nhân cùng Emilian khép lại những dòng hồi ký, nhất quán trong suy nghĩ về số phận của loài homo sapiens – những đồng loại phải sống trong một thế giới hận thù, xung đột. Hạnh phúc của Po được tạo nên trong một không gian xa cách với thế giới văn minh, để anh cảm nhận sự sung sướng thoát ra khỏi những ám ảnh về những homo sapiens cố chấp và hung dữ, cướp của giết người, lật lọng, hủ tục dã man, lòng dạ xấu xa thâm độc, vô luân. Anh được trải nghiệm cuộc sống thật sự không có mối thâm thù giữa các dân tộc để bùng phát các cuộc chiến phi nghĩa, những cái chết thê thảm. Thế nhưng xã hội của loài homo sapiens không tồn tại một không gian lí tưởng như vậy, nên Po tiếp tục phải chứng kiến một cục diện chính trị đầy bất ổn của đất nước Công Gô – với sự tham chính, can thiệp từ nhiều phía. Nhân loại tiếp tục chứng kiến những thủ đoạn, những âm mưu của C.I.A, MI.6, hòng lôi kéo các lực lượng, các chính đảng bản địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của xứ Công Gô. Tác giả để cho Po xuất hiện bên cạnh Patrice Lumumba như một người bạn, vị cố vấn, nhà tư tưởng, người đem đến những bài học lịch sử đắt giá giúp cho lãnh tụ cách mạng tìm ra con đường đúng đắn, sức mạnh thật sự giải phóng dân tộc Công Gô. Mốc thời gian Công Gô được vua Bỉ tuyên bố trao trả độc lập thì cũng là lúc chính khách Patrice Lumumba trở thành mục tiêu cần loại bỏ trên chính trường, vì chủ trương cách mạng kiên quyết. Dẫu cho thắng lợi với chủ trương giành độc lập bất bạo động theo con đường của Thánh Ghandi, nhưng trước độc lập và sau độc lập về cơ bản vẫn chưa thay đổi bộ mặt xã hội, khi lực lượng Forte Publique – công cụ đàn áp của chính quyền thực dân Bỉ vẫn nắm trong tay quyền lực ngu muội và hiếu sát. Lần lượt những con người chính trực, những nhà cách mạng nhiệt thành nhất bị sát hại, bị thủ tiêu với sự giật dây của các cơ quan tình báo nước ngoài can thiệp sâu vào nội bộ quốc gia Công Gô. Bối cảnh xung đột Đông – Tây về ý thức hệ mà đứng đầu là Liên Xô và Mỹ đã đẩy Công Gô vào tình trạng hỗn loạn, để cho kẻ độc tài đầy tham vọng Mobutu dựa vào thế lực của Mỹ và phương Tây lật đổ tổng thống và thủ tướng lên nắm quyền…Gương mặt loài homo sapiens một lần nữa lại xấu xí độc ác vô cùng, khi nền dân chủ bị thủ tiêu và tương lai của một quốc gia nằm trên bàn nghị sự của những kẻ nhân danh nước lớn định đoạt số phận của các quốc gia có chủ quyền. Các nhân vật chính trị, quân sự trở thành quân cờ, con rối bị giật dây từ nhiều phía… Những biến động ở quốc gia Công Gô được tác giả Trần Như Luận tái hiện bằng giọng văn thông tấn, ngồn ngộn những sự kiện và soi chiếu trong mối quan hệ chồng chéo ở phạm vi toàn cầu. Nhà sử học thông tuệ Po Martin đã có những cảnh báo nhưng không thể ngăn cản hành động tội ác giết hại P.Lumumba và những nhà ái quốc. Danh vọng, quyền lực, tiền bạc, lợi ích phe nhóm đã hủy hoại những điều tốt đẹp, những ước mơ chính đáng, làm băng hoại những giá trị đạo đức. Cái còn lại sau những biến cố chính là sự thức tỉnh lương tri của loài người tiến bộ!
Thiết nghĩ trong mạch truyện này không thể bỏ qua vai trò của Blaise Sanchez – cũng là sĩ quan tình báo Mĩ Billy Smith, kẻ đã được cảm hóa bởi những tư tưởng nhân văn trong hồi ký của Po Martin. Anh ta tham gia vào mọi biến cố trên xứ Công Gô thuộc Bỉ, thực hiện vô cùng mẫn cán những chủ trương của cấp trên, thậm chí các mối quan hệ tình cảm của anh ta cũng thấm đẫm chất phiêu lưu mà đằng sau là những âm mưu, những toan tính chính trị: từ việc tiếp cận Disanka và sau đó là cuộc hôn nhân với Imani là một chuỗi hành động ngụy trang khuôn mặt thật trong vẻ lãng tử, hào hoa và chính trực. Một sĩ quan tình báo như anh ta thì tình yêu chỉ là thứ yếu, anh ta vẫn sẵn sàng tình tứ với nhân viên tình báo MI-6 Rosa, sống trong niềm khoái cảm “make love’ với nhân tình Linda khi nghỉ phép về Mĩ! Dù cho được thức tỉnh lương tri qua những ghi chép không có giá trị tình báo của Po, thế nhưng anh ta vẫn tham dự đầy đủ trong những âm mưu bẩn thỉu làm hỗn loạn đất nước Công Gô. Sự dũng cảm của Billy Smith từ chối nhận lệnh của cấp trên thủ tiêu, ám sát P. Lumumba cũng giống như tâm trạng hai vợ chồng Maxime Peeters và Kangelu Congo – hai nhân viên tình báo MI-6, đày dằn vặt khi nhận lệnh thủ tiêu nhà ái quốc! Nhân cách và hành động của Lumumba thức tỉnh những con người chỉ biết hành động theo mệnh lệnh. Nhưng bản thân họ bất lực khi không thể ngăn cản những kẻ hám lợi mờ mắt, tham quyền bất chấp thủ đoạn. Billy gặp được Po, những người vợ châu Phi hiền hòa của họ, những đứa con của họ trở nên thân thiết với nhau. Để rồi lần đầu tiên, Billy mới được nói lên tâm tư cực kỳ chán ghét chiến tranh mà bản thân anh ta cũng là một tội đồ. Po thì đau lòng trước nỗi đau đớn tột cùng của người anh hùng dân tộc Lumumba chỉ vì “quá tha thiết với đồng bào mình, quá nhiệt tâm với tiền đồ dân tộc”. Lương tri đã tha thứ cho lỗi lầm quá khứ, đã thổi bùng hành động của Billy, của Po trong các cuộc tuần hành, đã khơi nguồn cảm hứng phản chiến trong các ca khúc của Bob Dylan, phong trào hippi với câu khẩu hiệu nổi tiếng “Make love, not War”! Tác giả tiểu thuyết còn có tham vọng để cho tư tưởng của Po hòa quyện với tinh thần Lão Đam tái thế trên lục địa Trung Hoa, băng một kết thúc có phần hoang đường, mang màu sắc huyền thoại. Có thể lối kết tiểu thuyết ấy chưa làm hài lòng những người muốn dõi theo số phận, hành tung của nhân vật Po như con người bằng xương bằng thịt, nhân chứng của một thời đại bạo lực và chiến tranh. Nhưng chọn cách hóa thân đầy ảo giác Po – Lão tử tái thế sau những câu chuyện để vẽ lên gương mặt loài homo sapiens trong một thời đại khốc liệt, phải chăng tác giả muốn người đọc cùng mơ về một gương mặt loài homo sapiens của tương lai – bình thản an yên trong thế giới vô vi đại đồng?
15.8.2023
TRẦN HÀ NAM

Phác thảo về Nguyễn Trí

PHÁ C THẢO VỀ NGUYỄN TRÍ

  • Trần Hà Nam

Từ cuốn sách đầu tay “Bãi vàng, đá quý, trầm hương” được NXB Trẻ in năm 2012, ẵm ngay giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam 2013, Nguyễn Trí ào ạt tung ra liên tiếp những cuốn sách mới và đều được bạn đọc đón nhận trân trọng, anh cũng được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Công lao ấy phải kể đến “bà đỡ mát tay” – nhà văn Hồ Anh Thái, từ năm 2009 đã tỉ mẩn biên tập cho từng truyện ngắn rời và đề lời giới thiệu cho bạn đọc biết đến một Nguyễn Trí như một nhà văn thứ thiệt: “văn chương của Nguyễn Trí là kiểu hấp dẫn nhờ một đời sống thực và cần được nghe thêm bồi đắp từ những người đã nếm trải thực”.

 Nguồn năng lượng nào cho một người trong vòng 10 năm cho ra đời liên tiếp 18 đầu sách như Nguyễn Trí? Sách ra không phải cho vui, mà như hối hả kể lại những gì trải qua trong đời mình, sợ rằng một mai không có dịp kể chăng? Đâu chỉ thuần túy kể chuyện, mà Nguyễn Trí đang sống lại chuỗi ký ức gắn với thời đại đầy biến động, tạo nên bao sóng gió thăng trầm trong cuộc đời anh. Trong các tác phẩm ấy, có lẽ chắp nối lại cũng hình dung phần nào về con người nhà văn: một “tuổi thơ không có cánh diều” phải lưu lạc nhiều vùng, dọc ngang vật vã với đời,Minh Trí thành một Minh Tàn rồi tự nhận hỗn danh “Trí Khùng” trong cuốn tự truyện.

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi…

Đi mãi rồi gã giang hồ cũng dừng chân, và mười năm nay, gã kể chuyện. Người ta nghe gã “kể chơi” ròng rã như nghe nghìn lẻ một đêm, và thật sự bị cuốn vào vòng xoáy đời sống, vui buồn khóc cười cùng nhân vật của gã. Cái ngang tàng bụi bặm của một anh trai Bình Định thuở nào cộng với cách sống đậm chất nghĩa hiệp của anh hai Nam bộ, vị tân toan của đời hằn trên gương mặt “cô hồn” lại tuôn chảy dòng văn hòa nhịp với đời thường, người ta nghe chuyện và gặp mình trong đó. Vẫn còn đâu đó chút chất chơi, dù chủ nhân từ lâu đã hết “quota” rượu chè, đổ bác, hút xách (còn cái khoản thứ tư trong “tứ đổ tường” thì …chịu, vì nó tế nhị, thường là cái cuối cùng cho mấy cha nói dóc bản lĩnh đàn ông!). Cũng lạ, sau khi đi qua tất cả đau thương cuộc đời, sứt mẻ kha khá mà còn đam mê viết lách, “mê cháy bỏng” như gã nói, thì đúng là Trí Khùng giữa cái thời thiên hạ đều tỉnh táo chứ gì nữa!

Coi, chuyện kể của một dân chơi có gì mà hấp dẫn người ta thế?

  1. Văn Nguyễn Trí trên tiến trình đổi mới văn học   

Có thể nói Nguyễn Trí xuất hiện trên văn đàn khá muộn, khi tiến trình đổi mới văn học Việt Nam hiện đại đã được định hình. Nhưng anh xứng đáng là đại diện cho một khuynh hướng văn học trong khoảng thời gian 2012 – 2022. Xuất hiện trên văn đàn nhờ sự đỡ đầu của Hồ Anh Thái – nhà văn có biệt tài phát hiện giọng văn mới, rất nhanh chóng Nguyễn Trí đã khẳng định được mình ở giọng văn kể chuyện không trộn lẫn, với không gian cũng rất đặc trưng và thời gian bao quát được một giai đoạn đầy biến động của đất nước: miền Trung, miền Đông Nam Bộ; những năm cuối của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, những năm khốn khó trong nền kinh tế bao cấp, giai đoạn chuyển mình khốc liệt sang nền kinh tế thị trường. Anh không đóng vai trò của một người chép sử, mà chính là chứng nhân, là sản phẩm của thời đại. Cũng hiếm có ai đi qua bao thăng trầm mà vẫn kiên nhẫn nuôi giấc mộng văn chương từ thuở hoa niên. Anh tập trung bút lực vào hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, tuy nhiên chất truyện ngắn lấn át và chiếm lĩnh cả không gian tiểu thuyết theo kiểu phân đoạn chương hồi hiện đại. 

May mắn hay không khi anh không được đào tạo bài bản “dưới mái trường xã hội chủ nghĩa” hay con đường học vấn của anh đứt ngang giữa chừng không đủ để vỗ ngực ta dân Tú tài bán, Tú tài toàn bụng đầy chữ nghĩa, xổ tiếng Anh như gió kiểu mấy trí thức “triều cũ” tiếc nuối thời vàng son. Khi vừa kịp trưởng thành và bị ném vào đời, gia tài văn chương của Nguyễn Trí có lẽ chỉ là mấy bài thơ, tản văn viết trong các tập san học trò không còn lưu dấu tích. Cái thời bao cấp có lẽ vốn liếng văn chương là những gì còn lưu giữ trong cậu học trò trung học đệ tam cấp mê lời giảng của các ông bà giáo dạy Việt văn uyên bác vốn cổ, là những tác phẩm Kim Dung, Cổ Long… thời đó chuyền tay nhau tả tơi trang đầu trang cuối, là những “văn hóa phẩm độc hại” còn sót lại sau những cuộc truy quét. Chút vốn liếng của văn học sau 1975 có lẽ anh cũng chịu khó tìm đọc, sau khi đã tạm yên ổn qua ngày tháng bụi bặm lăn lóc, hoặc được cung cấp để cán bộ giáo dục dân “lao cải”, mà với một kẻ thèm đọc thèm viết lại thành tư liệu để kiểm chứng với đời sống thực anh phải nếm trải. Cho nên nhìn vào tác phẩm Nguyễn Trí, sẽ không có những trăn trở chuyển hướng từ “khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn cách mạng” sang “cảm hứng thế sự, nhân sinh”. Truyện Nguyễn Trí thuần túy là chuyện đời, tự kể hay hồi ức, có hư cấu nhưng rất gần với dòng văn học “non – fiction” (không hư cấu) được người đọc hiện nay ưa thích. Xuất hiện trong thời điểm người đọc còn thòm thèm sau Mùi Cọp (Quý Thể), Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư), truyện và tiểu thuyết của Nguyễn Trí hướng về đại chúng với chuyện về giới giang hồ, đồ tể, ăn bay,… một phần thỏa mãn trí tò mò về những góc khuất những mảng tối của cuộc sống chưa từng được biết, nhưng cũng là cách anh trả ơn cuộc đời, viết để nhìn lại và giúp mọi người hiểu trong bùn có sen, trong tuyệt vọng vẫn có lý do để người ta hi vọng, vươn lên.

  1. Không gian chuyện kể của Nguyễn Trí

Ở một góc nhìn về sáng tác của nhà văn, để tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của tác giả, theo cách tiếp cận của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, cần chú ý dấu ấn tuổi thơ của tác giả. Nguyễn Trí có tuổi thơ gắn với Bình Định, nơi giao tranh ác liệt của hai phe từ khoảng thời gian 1964 – 1972, lại là con của một lính cộng hòa đồn trú nhiều nơi. Tuổi thơ chỉ có niềm vui đọc sách là đáng giá, đủ để quên những nỗi ám ảnh chết chóc, chiến tranh. Nhưng cũng từ “Tuổi thơ không có cánh diều” này, niềm đam mê đọc sách đã biến thành nỗi oan khuất đầu đời với trận đòn của cha đẩy anh ra cuộc sống lề đường, tiếp xúc với các thành phần bất hảo của xã hội cuối cuộc chiến: lính tráng, lưu manh trộm cướp, xì ke gái điếm…Cuộc chiến tàn cũng là lúc cuộc chiến cơm áo gạo tiền lôi tuột anh vào rừng sâu núi thẳm, sống cuộc đời “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Cứ thế mà phiêu dạt chốn thâm sơn cùng cốc mà lại không làm ẩn sĩ, bởi có hàng vạn người như anh lầm lũi trong hành trình khốn khó, liều lĩnh và bất cần đời. Qua tuổi “tri thiên mệnh” mới chính thức cầm bút như một nhu cầu phải viết, hối hả như kiểu H. Banzac viết bộ Tấn trò đời. Cuộc đời phiêu dạt trả lại cho anh đôi bàn tay trắng cùng gánh nặng gia đình tiếp tục đeo bám chữ “nghèo” như một nghiệp dĩ, duy nhất giàu là những chuyện kể như nghìn lẻ một đêm, lai rai không biết bao nhiêu cuộc rượu, cũng chẳng tham vọng gì lớn,  mua vui cũng được một vài trống canh..

Tính chất tự truyện chiếm phần lớn các trang viết của Nguyễn Trí, anh hóa thân vào phần lớn nhân vật của mình để tham gia vào những biến cố, kể lại rành mạch bao chà xát của đời lên phận người. Anh là một người kể chuyện giỏi, hoạt ngôn và phóng túng, không câu nệ trong cách dùng từ, đặt câu chỉn chu như phần lớn nhà văn chuyên nghiệp. Có chuyện là kể, chuyện nọ có thể vắt sang chuyện kia, phá vỡ các lý thuyết về kết cấu truyện, xây dựng tình huống, tạo dựng tâm lý nhân vật. Nhưng không có nghĩa là ẩu bưởng, thích gì kể nấy, vẫn có một mạch xuyên suốt trong các chuyện kể của anh, khi lách qua một rừng những sự kiện ập đến với nhân vật, bóc tỉa các mối quan hệ phức tạp chồng chéo trong đám đông giữa các không gian xô bồ, nhốn nháo, chụp giật tranh cướp. Nhân vật của anh thường có một chuỗi những đụng độ va chạm với đời sống, trải qua các miền đời “nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương”, vẫy vùng vượt lên nghịch cảnh để vươn lên làm một người bình thường; loại nhân vật thứ hai là kiểu người sống bất chấp, bất cần, và trượt dài trên hành trình tha hóa, trả giá cho những việc làm của mình, như một tiên nghiệm nhân – quả, với những kết cục tất yếu có thể dễ hình dung. Phần lớn các nhân vật đều có một nét éo le, bất ngờ trong số phận, bị xô dạt vào tâm xoáy bão đời, bị dồn đẩy vào ngõ cụt, luôn phải sống trong cảm giấc bất an của cuộc sống dưới đáy, ngoài vòng pháp luật hoặc thuộc về một thế hệ đánh mất (the lost generation – thuật ngữ của văn học phương Tây sau chiến tranh thế giới thứ Nhất về lớp người mất niềm tin vào thực tại khi trở về sau chiến tranh). Thế giới nhân vật của Nguyễn Trí đa dạng nhưng có thể tìm thấy mẫu số chung: phần lớn họ không được ưu ái của định mệnh, của thời cuộc. Có những kẻ thuộc “triều cũ” – như cách nói cửa miệng của dân gian, có những thành phần cơ bản đã dấn thân vào cuộc chiến đấu của dân tộc thống nhất đất nước hoặc bảo vệ biên giới, từ cuộc chiến trở về với rất nhiều đổ vỡ, họ ít nhiều đều dính dáng đến nhưng thói tệ của con người, sống với nhau bằng giành giật tranh cướp, mưu toan, thủ đoạn… Giữa đủ hạng người đó, luôn xuất hiện một Minh Tàn, Minh Bụi, Hùng Tàn, Trí Khùng, Năm Già… đủ từng trải để nhận diện, đủ lọc lõi để đối phó, đủ khôn ngoan để thoát hiểm, dại mà không khờ để đủ ngộ ra chân tướng từng người khi lộ diện. Đặc điểm của nhân vật này là đọc nhiều, hay suy tư dằn vặt, luôn sẵn sàng trong tư thế “đi với ma mặc áo giấy” nhưng cuối cùng luôn hướng thiện, phục thiện. Ngang tàng có thừa, nhưng khi cần thì nhũn nhặn lịch sự trước các đàn anh hổ báo, quan quyền thầy chú. Thế giới nghệ thuật của Nguyễn Trí có nét hoang dã giống dân Mỹ thời các cao bồi đấu súng, cưỡi ngựa rong ruổi trên đường chinh phục giấc mộng vàng – có đầy đủ Thiện – Ác – Tà (tên một bộ phim nổi tiếng của miền Viễn Tây). Bên cạnh đó lại pha trộn chất kiếm hiệp Kim Dung với thanh lâu, tửu quán in dấu chân của hắc đạo – bạch đạo, uống rượu như hũ chìm và ngất ngưởng ngạo nghễ trong các cuộc tỉ thí, phút trước đánh nhau vỡ đầu phút sau đã cạn ly gọi nhau hảo bằng hữu! Mạch chuyện kể của Nguyễn Trí nhiều khi là những gì anh trực tiếp nếm trái đắng, đặc biệt là những sáng tác ban đầu của anh; chuyện về sau là của bao giang hồ thứ thiệt anh từng gặp trên hành trình mưu sinh khốn khó. Mỗi người mỗi cảnh, đều được kể bằng một giọng tỉnh rụi, dẫu sự thực tàn nhẫn khủng khiếp đến mấy cũng khó làm cho anh đổi giọng, có lẽ vị tân toan đếm đủ, máu và nước mắt của chính anh đã đổ không ít lần, để không còn run rẩy trong câu chữ uất nghẹn hay cảm thương. Anh không có cái kiểu viết giật gân câu khách, cố tỏ vẻ như một số cây bút lấy viết lách để thể hiện ta đây cũng sành sỏi lắm. Anh cũng chẳng cần thận trọng ngòi bút để “tự trói mình” như thế hệ nhà văn được giáo dục “hồng và chuyên” để gọt đẽo nhân vật của mình an toàn theo một mẫu hình nào đó. Cứ khề khà, “kể nghe chơi…” với đúng thứ ngôn ngữ khi trà dư tửu hậu, chuyện nọ nối chuyện kia, “mua vui cũng được một vài…” cữ sương sương. Nhưng nghe chơi mà nhớ lâu, mà thảng thốt, mà bàng hoàng, mà kinh khiếp, mà giật mình vì cái gã kể chuyện kia nhiều khi như biết tỏng gan ruột người khác, phơi tuốt luốt trên trang giấy. Mà “ta bà” khoái vụ gì, nếu không phải là “Tình, Tiền, Tù Tội”, là “tứ khoái”, là đủ thứ “ma bùn, lưu manh”, những “mánh” những “chiêu” những “bài” qua người kể chuyện hấp dẫn nghe thâu đêm suốt sáng vẫn “đã lỗ nhĩ”…? Vốn liếng đời sống, trải nghiệm văn hóa đâu mà lắm vậy? Thì gã tích lũy quan sát, ghi nhớ và xài đi xài lại kiểu mấy ông già xưa nói thơ hát thơ Vân Tiên, vui vui thì nói trạng, kể tiếu lâm kiểu bác Ba Phi cho đỡ buồn. Chữ nghĩa thì đời nói sao tui thuật lại vậy, có chêm xen đưa đà đưa cay thì cũng là chuyện nhỏ, mấy đứa nghe chẳng còn “rành sáu câu” hơn hay sao? Chừng nào đời còn nhiều chuyện thì Nguyễn Trí vẫn còn kể mãi không ngưng!

  1. Dòng đời trong văn Nguyễn Trí

Dân chơi phải có chất – ấy là giang hồ đồn. Và cái chất dân chơi trong chuyện kể của Nguyễn Trí gắn với các đề tài sở trường bất đắc dĩ của anh: cuộc sống của đám trẻ trong vùng cài răng lược Bình Định 64 – 72 – tuổi thơ không có cánh diều, cuộc đời của đám lưu manh sống bám vào chiến tranh như hệ quả tất yếu của “bên thua cuộc”, số phận phiêu dạt bất định của lớp người sau 1975, cuộc sống bất cần đời của dân tứ xứ 39 tỉnh thành ở “bãi vàng, đá quý , trầm hương”, nghề đồ tể, bán vé số, chạy xe ôm, ma cô, gái điếm; nghề giáo hợp đồng, cuộc sống công nhân ở các khu công nghiệp…

Trước khi dấn thân vào cuộc sống lưu lạc giang hồ, tuổi thơ của Nguyễn Trí cũng in đậm những lần luân chuyển theo gia đình ở các khu gia binh. Từ Tân Cảnh, Kontum xuống Bình Định, vùng cài răng lược với những cuộc giao tranh ác liệt của quân chủ lực Mỹ và bộ đội, từ Đệ Đức, Bồng Sơn về Phú Tài. Những đứa trẻ lớn lên đã phải quen với mùi thuốc súng, chơi với thuốc súng và nếm trải cả nỗi đau mang mùi đạn bom… Cảm giác bất an cứ rình rập trở thành một ám ảnh vận vào các nhân vật của Nguyễn Trí sau này. Biến động lịch sử cũng cuốn phăng bao dự định tương lai, và chính thức Nguyễn Trí dấn thân vào đời gió bụi mưu sinh kể từ sau giải phóng năm 1975. Lưu lạc vào miền Đông Nam Bộ, có mặt ở những chốn cao nguyên đất đỏ, bãi đá hầm vàng cùng giấc mơ đổi đời, bán sức và bán mạng một cách liều lĩnh trong cuộc sống đặt ngoài vòng pháp luật, tụ hội dân tứ xứ giang hồ trong một mẫu số chung: nghèo và liều. Giang hồ thứ thiệt chứ không phải kiểu “nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà”. Cuộc đời đã lộn trái anh, vắt kiệt anh từ Minh Trí thành Minh Tàn, trút lên gánh nặng một vợ bốn con mà những xui rủi số phận dồn đuổi đến tận cùng. Nếu làm một bản thống kê đầy đủ những nghề nghiệp thì có lẽ đỉnh cao để đời trọng vọng kiêng nể là làm anh giáo hợp đồng bảy năm, còn tận cùng nhất là một kẻ tù lao cải, nếm trải bao hãi hùng địa ngục trần gian. Cái xấu, cái ác, cái đểu giả, lọc lừa luôn bủa vây; tệ nạn, tứ đổ tường chưa gì chưa trải qua, từ quan cộng hòa đến quan cách mạng cũng chẳng lạ gì các trò tháu cáy, “ma bùn, lưu manh”. Trong tận cùng dưới đáy ấy, chỉ khao khát được làm người bình đẳng như bao người, một mái nhà một gia đình êm ấm, mà đến tận bây giờ chẳng biết số phận trớ trêu đã buông tha anh chưa? 

Đọc Nguyễn Trí, có thể thấy rất nhiều cái chết được hiện diện từ chiến tranh đến thời bình: bất đắc kỳ tử vì tên bay đạn lạc, nổ lựu đạn, bắn giết nhau; chết vì thanh toán ân oán giang hồ, vì sốt rét rừng, rắn cắn, đuối nước, cây đá đè, sập hầm, sản hậu, ghen tuông, cướp,  “hát có ết”… mới thấy phận người đầy bất an!

  1. Thông điệp trong từng trang viết

Lần theo mạch văn Nguyễn Trí, dấu ấn của một thời tao loạn in hằn lên số phận của từng nhân vật. Cố nhiên, trung tâm sẽ là loại nhân vật trải đời, lăn xả vào đời vì miếng cơm manh áo một cách bất đắc dĩ, vẫn luôn khao khát một cuộc sống bình dị, “rửa tay gác kiếm” để bình tâm kể lại đời mình cũng như chiêm nghiệm luật đời rất sòng phẳng. Nếu đi tìm một triết luận cao siêu, một tư tuorng mang tầm nhân loại, e rằng các nhà phê bình hàn lâm sẽ thất vọng. Quy luật kinh tế thị trường, sự thay đổi các bậc thang giá trị, viết như một sự nhập cuộc đáp ứng thị hiếu công chúng…e rằng xa lạ với văn Nguyễn Trí. Mà những hệ lụy thời chiến sang thời bình, bao cấp sang mở cửa, giang hồ đến hoàn lương chính là chất liệu từ đời được anh nếm trải để chuyển hóa thành văn. Hãy đọc lý do anh đến với văn qua Trí Khùng tự truyện Thiên hạ có ăn học thì có văn có chương, mình vô học thì kể (…)Và cứ thế, tôi kể hết  cuốn vở trăm trang này qua trăm trang khác. Kể lại chuyện đời mình thì dễ và nhanh như sao xẹt, và thế là vài mươi cuốn vở dầy đặc chữ nghĩa xếp đầy cái tủ thảm thiết trong nhà tôi”  (tr.217 – 218). Bắt đầu là như thế, học viết, để nối lại giấc mơ thời trẻ, để kéo lại cái niềm tin chữ nghĩa còn có ích cho đời. Học và đọc, kể và chờ đợi những phản hồi, một chặng đường 5 năm (2009 – 2013) để tin mình không phải kẻ bất tài, văn Nguyễn Trí có bạn đọc của Nguyễn Trí, anh dấn thân trở thành nhà văn vì “viết đã giúp sự tăm tối của gia đình tôi sáng lên một chút”. 

Những câu chuyện kể nối chuỗi ngày tháng biến động đời người ấy sẽ đi vào quên lãng, nếu qua từng trang viết người đọc không được sống lại những ký ức một cách chi tiết và sống động, gặp được chính mình trong đó. Ký ức cũng không phải để gặm nhấm mòn mỏi mà sức cuốn hút của nó trước hết là sự chân thực, không cường điệu không đánh bóng bằng ngôn từ hay cố ra vẻ cao đạo triết luận. Văn và đời gần nhau trong từng câu chuyện của Nguyễn Trí. Ít ra trong buổi đầu, từ truyện ngắn đầu tay in trên Tuổi trẻ cuối tuần tạo được tiếng vang, cho đến 89 số báo trên Đại biểu nhân dân là mảnh đất riêng anh thỏa sức tung hoành từ truyện ngắn đến truyện vừa, Nguyễn Trí đã tìm ra lối đi cho riêng mình khi nối dài từ chuyện mình, chuyện người, chuyện đời để người đọc hình dung ra có một thế giới với bao phận người chưa được hiểu rõ, giờ được kể lại bởi chính người trong cuộc, với những “sự thật đắng cay”, “sự thật tàn nhẫn” mà cảm xúc của người viết đã đủ độ lắng để chắt lọc giữa bộn bề những chuyện đời khác thường mà với tác giả lại là chuyện thường ngày chưa được kể!

 Nhân vật Nguyễn Trí có chất Bình Định: võ nghệ và chịu thương chịu khó, chất miền Đông hảo hán và trượng nghĩa, có cả chất nổi loạn của “con người bé nhỏ”, tự trọng không để ai khinh. Ranh giới sang – hèn đo ở cách ứng xử với nhau trong “cõi ta bà”. Gần đây, văn của anh thêm chất triết lý pha trộn của tôn giáo nhập thế, thiên về chiêm nghiệm quy luật bù trừ, nhân quả, mang màu sắc luật đời hơn là giáo lý kinh viện. Anh không cố cắt nghĩa trong những truyện của mình, mà cứ để cho các nhân vật của mình sống với cái bản năng hoang dã nhất của họ, chà xát đụng độ bạo liệt, trần trụi trong một thế giới có quá nhiều hiểm nguy rình rập, đôi khi thấm thía đến tận cùng cái vô nghĩa, nhạt nhẽo của đời nhưng vẫn phải quằn quại, vật vã sống. Có những truyện chưa có hồi kết nhưng tác giả cũng cứ để lửng lơ, vì có viết nữa sẽ sa vào rao giảng, biện luận, nhào nặn nhân vật vào khuôn tư biện của mình. Nên có những truyện kết thúc theo một cách ấm ức kiểu Con Luốc, Trăng rừng,…Nhiều truyện tác giả kể, nhân vật chính đều kết thúc bằng những cái chết, có những cái chết rất “khùng”, những cái chết được báo trước, cái chết như sự trả giá ân oán giang hồ, cái chết lãng xẹt nhưng đôi khi là tất yếu trong một môi trường mà người ta không lường được tai họa giáng xuống lúc nào. Thường là sau cái chết, một Minh Tàn, Hùng Tàn, Năm Lựu Đạn… – người kể chuyện – cứ nhẩn nha buông ra một câu tưởng chừng trớt quớt, nâng một ly xây chừng để kết lại câu chuyện; hoặc cũng có thể anh dành lời kết cho đám đông – người nghe – như vỡ lẽ “À, ra thế, rồi sao nữa …”. Mà đời thì có bao giờ hết chuyện, người ta cứ tự móc nối các thân phận, các mối quan hệ trong lời kể, để thấy một điều nghĩa lý nào đó sau bao điều vô nghĩa lý.

Từ truyện ngắn, Nguyễn Trí đã đầu tư sang lĩnh vực tiểu thuyết, với anh là những chuỗi chuyện kể xoay quanh biến động cuộc đời nhân vật với các biến cố thời gian dài hơi hơn: Thiên đường ảo vọng, Ngoi lên từ đáy, Bụi đời và Thục nữ, Ăn bay, gần đây nhất là Ma lực của cội nguồn. Bên cạnh đó là mảng truyện thiếu nhi mà anh gọi là truyện dài: Tuổi thơ không có cánh diều, Trên đồi đất đỏ…Tiểu thuyết là nơi tác giả có thể đảo điểm nhìn trần thuật, tạo ra sự đa thanh đa nghĩa, hay xếp chồng truyện trong truyện, sống cùng nhiều miền đời, nhiều thân phận khác nhau… Tôi tin Nguyễn Trí tìm đến tiểu thuyết để kể cho đã, dẫn dắt người đọc đi hết hành trình thân phận nhân vật hơn là để thể nghiệm những lý thuyết tự sự, những triết luận nhân sinh hay phát ngôn tư tưởng… Tiểu thuyết là để tác giả giúp người đọc khảo nghiệm đầy đủ hơn “cõi ta bà” – như cách nói của anh. Không thuộc về khuynh hướng văn học “bước qua lời nguyền”, cũng chẳng phải lối viết giải thiêng thần tượng, pha trộn lịch sử – huyền thoại mà truyện Nguyễn Trí là của con người đương đại, là những vấn đề của lịch sử để lại, được nhìn từ góc độ của nhóm người yếu thế, dưới đáy, thậm chí đứng ngoài vòng pháp luật. Hiện lên sau các tiểu thuyết của anh trước hết là bóng dáng tác giả hóa thân trong từng nhân vật của mình, như xâu chuỗi của một thời bạt mạng bất cần đời, lì lợm đến vô cảm trước máu chảy, sinh ly tử biệt, cùng lắm chỉ là “nín lặng khóc”, âm thầm nghiến răng “ngoi lên từ đáy”. Bức tranh cuộc sống hiện lên cũng khá đa dạng với lẫn lộn thật – giả, ngụy – cách mạng thời tranh tối tranh sáng, những khốc liệt yêu – hận, ranh giới sang – hèn, những toan tính tình – tiền  thời kinh tế thị trường, những trò ma bùn, lưu manh lại tái hiện trong tiểu thuyết đầy đủ và hệ thống hơn. Nhưng xuyên suốt trong cách kể, giọng kể của Nguyễn Trí là thái độ buông xả, vị tha. Nên không cần cao giọng, chẳng cần lên lớp hay triết lý, mà cứ bình thản một giọng. Theo tôi, có một Nguyễn Trí với giọng văn khác biệt, cảm xúc đong đầy và không giấu giếm thương yêu xa xót cho nhân vật của mình là hai truyện dài viết cho thiếu nhi. Tuổi thơ không có cánh diều là của chính anh và bạn bè anh, những đứa trẻ sống trong lằn ranh đạn bom từ hai phía, với ký ức không thiếu những ấn tượng hãi hùng, máu và nước mắt, để những đứa trẻ lớn lên trong thời bình biết một thời tuổi thơ của cha ông trải qua khói lửa chiến tranh. Còn Trên đồi đất đỏ anh viết về tuổi thơ của những đứa con anh, chỉ biết làm bạn cùng thiên nhiên hoang dã, trải nghiệm cuộc sống lăn lộn mưu sinh quá sớm. Thiệt thòi là thế, nhưng may mắn cho những đứa trẻ là còn có một thế giới kỳ thú của rừng, nơi chúng được dạy kĩ năng sinh tồn, nơi có bao điều lạ cần khám phá và ở đó là những bài học về tình thương yêu của những con người khốn khó. Trẻ con nên chúng không bận tâm những phức tạp của thế giới người lớn. Lớn trong khốn khó, tranh giành nên chúng sơm khôn trước tuổi, thương má thương ba, phụ việc nhà và háo hức được chơi đùa. Cô bé Linh – nhân vật trung tâm, là một cô bé đặc biệt ngoan, ham thích khám phá. Thế giới của em là cậu bạn đặc biệt Bảy Xoáy, là con Luốc tinh khôn, là rừng với bao bài học sinh tồn. Nguyễn Trí muốn lưu lại tất cả những câu chuyện trong đó, như để gửi gắm bao thương yêu và trọn vẹn tấm lòng của một người cha. Truyện tưởng chẳng có gì mà lại làm người đọc xúc động vì tình yêu giản dị ấy.

Tôi còn muốn viết thật nhiều, muốn phân tích đi sâu vào từng mảng truyện ngắn, tiểu thuyết với những đề tài được tác giả đề cập còn khá mới mẻ và xa lạ với giới phê bình nghiên cứu văn học hiện nay. Nhưng e rằng làm công việc quá sức của một người đọc và cảm Nguyễn Trí, nên chỉ làm một phác thảo ban đầu về anh. Văn của anh cũng không tham vọng xếp chiếu trên, chiếu dưới làng văn; cũng chẳng chen chân vào dòng văn học thị trường nhan nhản những ngôn tình, những best-seller vừa lòng bạn đọc thập phương. Hành trình của anh muộn màng và có lẽ tác giả còn tiếp tục những tìm tòi, mở rộng sang chuyện người, chuyện đời cũng như tìm một phong cách, một tư tưởng để ít ra cũng dễ phân loại cho các nhà nghiên cứu chăng? Tôi nghĩ, anh còn sức viết và cũng rất cầu thị, tự mình nhận ra ưu khuyết để làm mới chính mình. Vậy là đủ! Vì Nguyễn Trí có văn riêng của Nguyễn Trí!

                        Tháng 1/2022 – tháng 10/2022

                                  T.H.N

Bình giảng bài thơ ĐẤT QUÊ TA MÊNH MÔNG (Dương Hương Ly)

Những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã qua lâu. Nhưng những dấu ấn của thời đại ấy vẫn ghi lại đầy đủ trong tâm trí bao lớp người. Chất thơ của một thời hùng vĩ, cao cả dường như kết tinh trong hình tượng người mẹ, để cho các nhà thơ, nhạc sĩ ngợi ca. Có một bài thơ đã ra đời trong những ngày tháng ấy, được phổ nhạc để vút lên âm điệu đầy xúc động về người mẹ: Đất quê ta mênh mông của Dương Hương Ly. Cái hay của bài thơ chính là ở tình cảm xúc động và giản dị.

Không phải ngẫu nhiên khi nhan đề bài thơ là “Đất quê ta mênh mông” nhưng hình tượng xuyên suốt bài thơ lại là Bà mẹ đào hầm. Nhà thơ có sự liên tưởng từ thực tế công việc của mẹ nhưng cảm hứng này cũng gắn liền cảm hứng trữ tình công dân của thi ca chống Mỹ. Tố Hữu từng viết:

Việt Nam ôi Tổ quốc thương yêu

Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều

Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng

Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng

Dương Hương Ly là nhà thơ – chiến sĩ hoạt động trên chiến trường miền Trung – Tây Nguyên, là người trực tiếp chứng kiến và chịu ơn sự hy sinh lặng thầm của những người mẹ nên có lẽ cảm hứng về Đất nước giàu ấn tượng từ người mẹ cũng là điều dĩ nhiên. Người Mẹ bình thường nhưng vĩ đại đã hiện lên trong những dòng thơ đầy ám ảnh, kết tinh vẻ đẹp của cả một thời đại chống Mỹ.

Bài thơ bắt đầu từ một câu chuyện được kể lại ngắn gọn, giản dị:

Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh

Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc

Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác

Bao đêm rồi tiếng cuốc vọng năm canh

Giản đơn là vậy, việc đào hầm của mẹ! Nhưng có sự bất bình thường ở chỗ nhà thơ xâu chuỗi hai khoảng thời gian “tóc còn xanh” đến khi “phơ phơ đầu bạc”. Công việc diễn ra thật âm thầm lặng lẽ, hòa cùng không gian của bóng đêm, bền bỉ miệt mài không ngừng nghỉ. “Bao đêm rồi…”, lời thơ như một câu hỏi vọng lên để nhà thơ bày tỏ lòng kính phục sự kiên trì nhẫn nại của mẹ. Hai âm thanh được diễn tả thật khác nhau: một bên là “đại bác”, một bên là “tiếng cuốc vọng năm canh”. Hóa ra việc đào hầm ấy không hề đơn giản vì đã đối mặt, thách thức sự hủy diệt của kẻ thù.

“Tiếng cuốc vọng năm canh” là âm vang tấm lòng người mẹ, để những đứa con dưới hầm bí mật và nhà thơ nhận ra một ý nghĩa thật lớn lao:

Đất nước mình hai mươi năm chiến tranh

Tiếng cuốc năm canh nặng tình đất nước

Hầm mẹ giăng như lũy như thành

Che chở mỗi bước chân con bước

Hai mươi năm – đủ để một thế hệ lớn lên, hai mươi năm – cũng là thời gian cả dân tộc phải đối đầu với sự hủy diệt của kẻ thù để bảo vệ nền độc lập tự do. Có một điều nhà thơ không nói rõ nhưng người đọc có thể nhận ra: đó cũng là thời gian đằng đẵng nhuộm mái tóc xanh của mẹ thành “phơ phơ đầu bạc” – một thời xuân sắc đã đi qua. Niềm vui của mẹ, tình yêu đời mẹ nằm trong “tiếng cuốc năm canh” đều đều như nhịp tim thôi thúc. Dương Hương Ly dồn hết tình cảm vào câu thơ ngợi ca tình mẹ – “nặng tình đất nước”. Câu thơ không phải cách so sánh thông thường mà chứa đựng niềm cảm phục kính yêu của những đứa con chiến sĩ. Thành quả của mẹ, công sức của mẹ là ở những chiếc hầm bí mật “giăng như lũy như thành”. Sức vóc mảnh mai của người mẹ “phơ phơ đầu bạc” vụt lớn lao thành sức mạnh Nhân Dân.

Từ niềm vui sứơng, biết ơn của một đứa con được bao bọc, chở che trong tình yêu của mẹ, nhà thơ chợt phát hiện ra một điều tưởng như nghịch lý:

Đất quê ta mênh mông

Quân thù không xăm hết được

Lòng mẹ rộng vô cùng

Đủ giấu cả hàng sư đoàn dưới đất

Nơi hầm tối lại là nơi sáng nhất

Nơi con tìm ra sức mạnh Việt Nam

Như một chân lý giản đơn, khi thế trận của lòng dân “giăng như lũy như thành”, kẻ thù phải bó tay, bất lực. Tác giả lại đưa ra một liên tưởng đầy ấn tượng từ “lòng mẹ” đến “lòng đất mẹ”. Xưa có câu chuyện mẹ Âu Cơ bọc lũ con trong bọc trăm trứng, nay người mẹ đào hầm bao bọc “cả hàng sư đoàn”. Phải chăng tác giả cũng đang nghĩ về một mẹ Âu Cơ của thời đại chống Mỹ? Duy có một điều khác chăng là người mẹ ở đây không bước ra từ huyền thoại mà bằng xương bằng thịt, bằng tất cả sự bao dung của tình yêu nước lớn lao. Đó cũng là cơ sở để nhà thơ nhận ra “sức mạnh Việt Nam” từ một nghịch lý “Nơi hầm tối lại là nơi sáng nhất”. Sứcmạnh của dân tộc tạo nên từ ơn sinh thành của người mẹ, sức mạnh ấy hội tụ cả lòng nhân ái và chủ nghĩa anh hùng. Từ cảm nhận này của Dương Hương Ly, ta chợt nhớ đến một lời ca ngợi của đại văn hào Nga M.Gorki : “Không có Người Mẹ thì cả anh hùng, cả nhà thơ đều không có. Sức mạnh Việt Nam – dân tộc anh hùng và nghệ sĩ – đã bắt nguồn từ người mẹ bình thường mà vô cùng vĩ đại, có lẽ đó là đều nhà thơ phát hiện được từ công việc âm thầm của mẹ.

Cuộc sinh nở nào mà chẳng đớn đau! Nhưng nỗi đau của mẹ lại gắn với những trận đòn thù của bầy giặc Mỹ điên cuồng, hèn hạ và bất lực. Có thể tác giả đã hơi tham lam khi đưa thêm vào chi tiết để tố cáo tội ác của kẻ thù cũng như để ngợi ca ý chí kiên cường của mẹ. Không một người mẹ bình thường nào lại không sẵn sàng chịu đau vì những đứa con mình. Sự lặng yên của mẹ là cái lặng im của đất. Ta có thể nhận ra ở đây nỗi đau đớn xót xa của những đứa con chiến sĩ cũng như quyện chặt vào cùng đất mẹ, như chờ phút bùng lên rửa hận. Còn mẹ thì vẫn thế:

Trên mình mẹ mang nhiều thương tật

Tóc mẹ bạc rồi lại bạc thêm

Nhưng đêm đêm

Tiếng nhát cuốc vẫn xóay vào ruột đất

Trong tiếng cuốc của mẹ, có cả nỗi đau xoáy ruột của cả những đứa con. Tiếng cuốc như thôi thúc, như giục giã lòng con quyết sống mái với kẻ thù.

Để rồi sức mạnh của mẹ truyền cả cho những đứa con:

Có những đoàn quân từ lòng đất xông lên

Quân thù bạt vía

Xung quanh chúng đâu cũng là trận địa

Đất quê ta mênh mông

Lòng mẹ rộng vô cùng

“Diệt Mỹ là cao cả của tình yêu”, chỉ có chiến đấu tiêu diệt kẻ thù mới là sự đáp lại đầy đủ nhất tình mẹ dành cho những người chiến sĩ. Sự che chở âm thầm, sự hy sinh lớn lao của mẹ dành cho những đứa con dưới hầm bí mật đã góp thêm sức mạnh khiến “quân thù bạt vía”. Một lần nữa điệp khúc “Đất quê ta mênh mông – Lòng mẹ rộng vô cùng” lại cất lên như một vĩ thanh để người đọc nhận ra ý nghĩa cao cả của cuộc chiến đấu chống Mỹ, vì Đất quê ta, vì Mẹ, vì những tình cảm lớn lao. Và một lần nữa, vóc dáng của Mẹ đã lớn mênh mông ngang tầm Đất Nước.

“Đất quê ta mênh mông” của Dương Hương Ly chỉ là một cảm nhận rất riêng của nhà thơ về sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thời đại chống Mỹ qua hình tượng Người Mẹ đào hầm. Nhưng hình tượng bất tử của Mẹ đã vượt qua thời gian để lưu lại mãi trong những lời ca dạt dào về mẹ. Đó cũng là nguồn cảm hứng về một thời đại giàu chất sử thi mà sau này một lần nữa ta còn gặp trong lời ca về mẹ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn “Mẹ về đứng dưới mưa, che từng căn hầm nhỏ…”. Hình tượng người mẹ – đất nước trong thời đại chống Mỹ sẽ mãi còn là nguồn cảm hứng nghệ thuật bất tận.

Hiểu bài thơ để chúng ta hiểu hơn về một thời đại hào hùng của dân tộc. Ta cũng hiểu tấm lòng rất đẹp của một nhà thơ – chiến sĩ dành cho mẹ, cho Tổ quốc. Từ tình yêu của mẹ, ta hiểu vì sao đất nước đối với ta lớn lao nhưng gần gũi thân thương vô cùng.

Giờ đây, mỗi khi giai điệu bài ca về người mẹ đào hầm vang lên trên sóng phát thanh, đài truyền hình, vang lên đâu đó giữa đời  thường bộn bề toan lo hối hả, hình ảnh mẹ “phơ phơ đầu bạc” trong bài thơ Dương Hương Ly lại hiện lên lồng lộng trong tâm trí, như một lời nhắc nhớ mỗi chúng ta…

                                    Qui Nhơn, 2006 – 2010

                                                T.H.N

ROCK CỒNG CHIÊNG

Đêm

uyển chuyển lưng cong chân nhún nhảy

Cồng chiêng ngân

Cồng chiêng ngân…

Ơi ta lại say rượu cần sóng mắt

Đất trời chung chiêng!

Kìa mắt Bhanar

Kìa bước chân hòa điệu

Vòng xoang rộng ra

Lửa reo giòn…

Cồng chiêng vang theo câu hát mênh mang

Có vơi nỗi buồn xứ núi

Có vơi nỗi niềm bóng tối?

Hớp rượu cần thiêu đốt

Những bước xoang mải mốt

Nào ‘cháy lên lửa thiêng….” ơi bạn mình!

Đêm rừng rực

Ta dẫu chẳng trai làng xin hát lời rất thực

Bùng cháy khát vọng lửa

Xé toang màn đêm

Cho mắt em tươi, cho nụ cười rạng rỡ!

Chân trần ơi nhún nhảy

Cho lòng ta hoang dại

Ước làm cánh chim bay dưới mặt trời

Ước trở lại tuổi hai mươi hừng hực

Để một lần đi rẫy

Uống rượu cần bên suối

Xoang cùng em đêm lửa hội

Mừng buôn làng mãi mãi ấm no

Cho bắp chân em tròn vo

Cho ngực em căng đầy dạt dào câu hát

Hòa cồng chiêng ngân nga…

3.10.2020

Sau đêm cồng chiêng xã Vĩnh An, Tây Sơn

T.H.N

Học Văn và học môn Văn

Năm thứ 18 dạy chuyên…

Lứa học trò đầu tiên đến lứa học trò hiện nay cũng có thể coi là cách nhau một thế hệ nữa rồi! Còn thầy của chúng, tất nhiên già đi, cũ hơn, mòn thêm và dần dần như tất cả những người bước qua tuổi trung niên mắc chứng hay than thở!

Thuở mới dạy chuyên, mình hăm hở lập ngôn: Dạy Văn chứ không dạy môn Văn! Lời lẽ to tát ở tuổi ba mươi nhưng kì thực là ngạo mạn ngỡ rằng mình đã biết dạy Văn! Cho nên, khi niềm kiêu hãnh thuở nào giờ lại bị tạt gáo nước lạnh, không thể không bàng hoàng! Hoá ra lứa học trò bây giờ đơn thuần chỉ coi ông thầy là người dạy môn Văn! Nghĩa là cứ gò học trò hàng năm, luyện thi, ra đề kiểm tra, chỉ cho chúng các mưu mẹo láu cá hòng kiếm thêm vài điểm đủ để chúng đậu đại học danh giá nào đó!

Trao đổi với các đồng nghiệp hoá ra họ cũng có tâm trạng giống minh, đối mặt với thực trạng học sinh chuyên từ chối nghĩa vụ cam kết khi vào trường là tham dự các kỳ thi học sinh giỏi! Và chúng hoàn toàn hành động theo ý muốn riêng mà phụ huynh hay thầy cô không có quyền tác động!

Một học sinh lớp chuyên tuyên bố nghỉ thi học sinh giỏi làm cho cả một tập thể hùa theo! Học trò này tự tin một cách hồn nhiên vào quyết định của bản thân: việc không thi học sinh giỏi không có nghĩa là kết thúc tình yêu văn! Và điểm 9 khi thi TNTHPTQG cũng tốt mà! Mình không dám  can thiệp vì phỏng có ích gì khi thầy phải hạ mình năm nỉ trò thi giùm cho, trong khi trái tim chúng nguội lạnh mọi cảm xúc! Vâng, em có thể đạt điểm 9 môn Văn bằng một bài viết đúng parem các thang điểm, như bất kỳ một học sinh bình thường nào khác để chứng tỏ nỗ lực gạo bài, nhưng em sẽ mãi mãi là người không biết học Văn, vì em đã chối bỏ cơ hội được thể hiện tình yêu Văn trong kì thi học sinh giỏi, vì em đã đặt những toan tính lên trên sự say mê!

Lại nhớ có những học trò đã trưởng thành đã viết sách best seller hẳn hoi, đám đàn em đọc ngấu nghiến, trong đó có lẽ chúng gặp ý tưởng của đàn chị từ chỗ yêu Văn thành căm ghét và chối bỏ theo Văn! Cô bé viết sách ấy từng là thành viên thi quốc gia môn Văn nhưng không có giải, dù tố chất rất tốt!  Theo tôi cô bé đàn chị ấy cũng đã truyền một nhận thức sai lầm cho tuổi trẻ hiện nay khi đến giờ vẫn không phân biệt được thế nào là học Văn và học môn Văn! Cô bé ấy có nhắc đến việc được học thầy của mình, nhà giáo ưu tú Trương Tham – ngày đó cũng tham gia bồi dưỡng, dù chỉ dạy vài buổi đã khai sáng cho cô bé cách viết một bài văn. Có lẽ cô bé ấy may mắn vì được học Văn thật sự từ vài tiết dạy của thầy Trương Tham, nhưng tiếc thay cô bé ấy có lẽ chưa thấu sự khác biệt giữa học Văn và học môn Văn nên mới có những lời chỉ trích từ việc cô bé tiếp thu môn Văn trong nhà trường! Còn lũ nhỏ thì tin đàn chị nói đúng vì chị là Best seller cơ mà! Giá như cô bé ấy là học trò thầy Tham lâu hơn, được trải qua những cảm xúc đặc biệt trong những giờ dạy của thầy, có lẽ cô đã không có những suy nghĩ tiêu cực như vậy! Cô bé ấy có lý khi chỉ ra thực trạng giáo viên quá chú tâm truyền đạt kiến thức môn Văn mà không tiếp lửa tình yêu văn chương cho học trò! Đam mê của cô chưa đủ lớn để tự tin chọn lựa văn chương như lẽ sống dù thực tại cô là một cây bút viết sách du kí có hạng.

Trong những nuối tiếc khi dạy ở trường chuyên chính là việc mình không có cơ hội để duy trì câu lạc bộ văn học cho học sinh được viết, được thể hiện những trải nghiệm của mình qua các đợt phát động sáng tác. Nguyên nhân cũng từ những kẻ sâu mọt mang danh văn nghệ sĩ đã tìm cách loại trừ nguy cơ từ mình, hòng cứu vãn chiếc ghế quyền lực đem lại khoản tiền béo bở! Dù cho bọn người này đã bị vạch trần và thất bại trong kỳ đại hội văn học nghệ thuật, nhưng mình bị những dèm pha từ chúng khiến hiệu trưởng giải tán câu lạc bộ văn học cho an toàn (!). Thầy buồn, trò buồn nhưng cũng không ít người thở phào vì học trò không tham gia văn học nghệ thuật… vớ vẩn!

Chưa bao giờ Văn lại bị rẻ rúng khinh khi đến thế, khi ngay từ trong cấu trúc chương trình đến từng đơn vị bài học và cách ra đề hiện nay, họ e ngại văn Hàn lâm mà chú trọng tính thực dụng. Còn học trò thì tiếp thu tinh thần thực dụng đến nỗi ngơ ngác không hiểu nổi một trang sách tiểu thuyết vì có lối diễn đạt bóng bẩy, dùng từ quá Hàn lâm! Còn văn học trung đại thì không chỉ học trò mà nhiều giáo viên cũng chỉ biết diện mạo vài đoạn trích giảng, chưa bao giờ đọc hết Lục Vân Tiên hay Truyện Kiều! Nên giờ Văn bị biến tướng, trở thành nơi rèn thuần thục các chiêu trò mảng miếng kiếm điểm cao mà chẳng cần yêu chẳng cần cảm vẫn có thể viết trơn tuột, nói dối không ngượng miệng. Chẳng biết trong số đó sẽ có bao nhiêu kẻ lên hàng ngũ những kẻ chuyên nói phét, nói láo xoen xoét tình yêu ngoài miệng để che đậy những toàn tính trục lợi bên trong?

Còn bao nhiêu điều trăn trở khi nhìn thực trạng bây giờ! Liệu mình có còn đủ can đảm như thuở qua tuổi ba mươi tuyên bố dạy Văn chứ không dạy môn Văn? Và thật ra mình đã biết dạy Văn chưa khi học sinh từ chối học Văn?

Nhớ một bài thơ Nguyễn Khuyến

Ngày xuân dặn các con

Nguyễn Khuyến
Tuổi thêm, thêm được tóc râu phờ,
Nay đã năm mươi có lẻ ba.
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa?
(Tác giả tự dịch bài “Xuân nhật thị chư nhi”)

Nhân ngày rảnh rỗi nhớ lại thời làm luận văn tốt nghiệp đại học, đề tài “Tính dân tộc đậm đà trong thơ Nguyễn Khuyến”, cảm cái chất thâm thúy trong thơ Cụ.
Bài thơ Ngày xuân dạy các con là một trong những bài thơ dạy con với tất cả sự nghiêm cẩn của một người cha. Không những thế, đó còn là tâm sự giữa thời loạn của một bậc trưởng thượng trong làng Nho bất lực trước cái đảo điên thế sự. Nguyễn Khuyến là một trường hợp hiếm hoi trong văn học trung đại Việt Nam khi vừa làm thơ chữ Hán, vừa tự dịch sang thơ Nôm. Có thể hiểu với truyền thống của văn chương trung đại coi trọng chữ Hán hơn chữ Nôm, những bài gửi gắm nỗi niềm kín đáo thường được tác giả viết bằng chữ Hán để tăng độ hàm súc trong cấu tứ, ngôn từ. Thế nhưng, khi tự chuyển sang chữ Nôm, có lẽ đó là cách Nguyễn Khuyến muốn cởi mở lòng mình, chia sẻ nỗi niềm bằng tiếng nói mộc mạc giản dị. Một người làm thơ Nôm đường luật xuất thần như Nguyễn Khuyến lại có thể chuyển ngữ sang tiếng ta một cách tinh tế điêu luyện, có những bài chữ Nôm xuất sắc và được nhớ nhiều hơn thơ chữ Hán. Bài thơ này là một minh chứng tiêu biểu.
Khi viết bài thơ này, Nguyễn Khuyến mang theo tâm trạng của một người dứt khoát trở về với nhân dân, nhưng vẫn trĩu nặng ưu tư thời thế:
Bút nghiễn trầm tư ưng hữu lệ
Sơn hà cử mục bất thăng sầu
(Ngẫm đến bút nghiên đáng tràn nước mắt
Ngước nhìn sông núi khôn xiết buồn đau)
Niềm hy vọng của ông gửi vào hậu thế cũng vẫn chưa thoát khỏi khuôn khổ của nhà Nho:học hành – đỗ đạt – làm quan… và luôn giữ mình gắn bó với gốc gác thuần hậu từ làng quê: “Các con nối chí cha nên biết – Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà”. Còn ở bài thơ này, ông dành để nói về mình nhiều hơn. Phần tiền giải là những tâm sự trĩu nặng buồn đau về thời thế:
Tuổi thêm, thêm được tóc râu phờ,
Nay đã năm mươi có lẻ ba.
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Còn gì đau hơn khi cứ nhìn ngày tháng trôi đi, những người đầy tâm huyết như ông đành ngậm ngùi cảm thấy sự già nua bất lực. Theo cách tính thời gian trong bài thơ, cũng có nghĩa là nhà thơ đã về lại vườn Bùi chốn cũ được 5 năm. Tuổi 53, chưa thể gọi là già (dù làng quê của ông bắt đầu làm lễ mừng lên lão cho các cụ khi chạm ngưỡng ngũ tuần!). Bản thân nhà thơ cũng ý thức điều đó chăng, khi ông nói về mình rất ấn tượng, trong hình hài “thêm được tóc râu phờ” – mang nghĩa mệt mỏi, chán chường, bế tắc. Cái phờ phạc hình hài còn gánh thêm cái buồn lo thời thế, đã được gói ghém trọn vẹn trong hai câu thực:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
Mối tương quan giữa nhà thơ – thời cuộc được diễn giải với đầy đủ tính bi kịch của nó! Cái vô nghĩa, giáo điều của đạo Nho đã không còn “ích gì” cho buổi nhiễu nhương. Đó là sự sụp đổ của một tín điều mà cụ Tam Nguyên không thể không cảm thấy cay đắng! Lý tưởng của một thời đại “vua sáng tôi hiền” trở nên tiếng cười mỉa mai chua chát, thành nỗi hổ thẹn. Lập công dương danh mà chi, khi mà “áo xiêm” của thời đại chỉ là thỏa mãn cho lũ người “vinh thân phì gia”, khao khát “lập công dương danh” đã bị những biến cố lịch sử làm đảo lộn. Áo xiêm mà chi, vênh vang mà chi! Người tự trọng như cụ chỉ càng thêm thẹn! Xưa Phạm Ngũ Lão thẹn vì chưa trả được “nợ công danh”, còn giờ cụ Hoàng Và lại thẹn cho chính mình đắm chìm quá sâu trong mớ lùng nhùng “áo xiêm” kia! Cái nỗi thẹn sau 600 năm của kẻ sĩ sao mà khác nhau quá!
Phần hậu giải của bài thơ, nỗi niềm ấy không nguôi mà tạo thành cái nhìn thời thế, nhân thế càng trở nên thảng thốt:
Xuân về ngày loạn càng lơ láo
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ
Cụ thật tài tình khi điểm nhãn hai câu thơ với những từ láy lơ láo, ngất ngơ khó có thể tìm từ nào thay thế hay hơn! Ngụ ý từ đó mà ra, khi dân Nam thời đó mấy ai mà không thuộc vài câu Kiều! Hẳn họ sẽ nhớ ngay tâm trạng Từ Hải : hàng thần lơ láo phận mình ra chi! Đời đã loạn, cố gắng cũng sức cùng lực kiệt khó xoay chuyển tình thế. Ai có lương tri sao mà không khỏi ngất ngơ, bàng hoàng?
Thời loạn, vận suy lắm rồi nên cụ không cao giọng dạy con theo kiểu giáo điều: “Quốc loạn thức trung thần, gia bần tri hiếu tử”, mà chỉ nhắc nhở một cách kín đáo:
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng
Sao con đàn hát vẫn say sưa?
Ngỡ như chỉ là mắng con ham chơi hơn ham học, bỏ phí “một tấc thời gian một tấc vàng” nhưng câu cuối khiến ta giật mình nhớ câu thơ Lý Thương Ẩn: Thương nữ bất tri vong quốc hận – Cách giang do xướng Hậu đình hoa. Nguyễn Khuyến đã từ quan, sau này con ông lại ra làm quan, ông lo buồn nhiều hơn vui. Nhắc con không để uổng phí thời gian, không ham mê những thú vui để hoài phí tuổi trẻ, cũng gắn mong muốn duy nhất là con mình chí ít sống có ich, sống tử tế giữa thời nhiễu nhương, vậy cũng là quý lắm rồi!
Đọc lại thơ Nguyễn Khuyến, gọi là một chút ôn cố tri tân, viết vội vài cảm nhận cho khỏi cùn ngòi bút, cũng tự nhắc mình khỏi ân hận mai này “lấy chi đền tấc bóng” vậy!
20/9/2016
T.H.N

Về bến My Lăng…

(Viết nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh cố thi sĩ Yến Lan)
Tôi còn nhớ vẹn nguyên cảm giác khi gặp thi sĩ Yến Lan lần đầu tiên tại Câu lạc bộ Văn học Xuân Diệu, lúc ấy không thể không nhớ đến hình ảnh ông lái đò trong bài thơ để đời BẾN MY LĂNG của ông! Có chút an nhiên đến hững hờ giữa đám trẻ háo hức đọc thơ văn ồn ào, có chút lặng lẽ gần như thu cả vào trong dáng vóc nhỏ thó… Ông thuộc về thế hệ mà chúng tôi ngày ấy “kính nhi viễn chi”, chỉ dám chiêm ngưỡng rụt rè mà không dám bỗ bã mở miệng, chỉ nghe ông kể chuyện và ngắm ông, hình dung về ông lái đò mà ông đã tạc lên sống động trong dòng thơ lãng mạn. Hóa ra, thơ vận vào người, nên ông dường như mang thần thái nhân vật của mình, dẫu cho ông cuối đời sống nơi ồn ào phố chợ thị trấn Bình Định! Chẳng phải thế sao, khi những hối hả bon chen bên ngoài không tác động mấy vào dòng cảm xúc của ông, và ông đọc sách, làm thơ, trở về với dòng tứ tuyệt Đường luật cổ kính, mà vẫn đầy mỹ cảm “Cầm chân em – Cầm chân hoa” …
Trở lại với BẾN MY LĂNG, cái bến sông tưởng tượng làm tốn giấy mực của bao thế hệ các nhà phê bình văn học, tôi chợt nhận ra bài thơ này dường như không thích hợp cho lối cảm thụ kinh viện, mà phải để hồn thật bay bổng, thật trong trẻo mới tái hiện được cái không gian bàng bạc ánh trăng đậm chất xứ Đồ Bàn:
Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách
Ông lái buồn, để gió lén mơn râu…
Ông không muốn run người ra tiếng địch
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao…
Hai khổ thơ đã tạo một không gian đậm chất lãng mạn và thoát tục: bến – thuyền, ông lão – vầng trăng, tất cả đều im lìm tĩnh mịch, phảng phất chất Đường thi phần nào gợi nhớ bến Tầm Dương trong thơ Bạch Cư Dị: “Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt – Một vầng trăng trong vắt lòng sông…” nhưng lại không phải như vậy!
Tâm thế lãng mạn in đậm nét hơn khi cái tĩnh lặng mang đến sự cô đơn tuyệt đối, gợi cảm giác trống vắng lan tỏa ngui ngút bao trùm vẻ huyền ảo dưới ánh trăng. Cùng lúc ùa vào một chút lạnh se cô quạnh của bến “nằm không thuyền đợi khách”, một chút tàn phai của “trăng rơi”, bầu trời “đìu hiu, tĩnh mịch, võ vàng” quyện vào thành nỗi buồn đọng lại trong lòng ông lái đò kia. Không biết giữa tứ thơ này của Yến Lan và Hàn Mặc Tử – hai người bạn trong “Bàn thành tứ hữu” và cũng là hai nhà thơ trong “trường thơ Loạn” – có mối liên hệ gì không, khi tôi chợt nhớ câu thơ của Hàn:
Người hóa ra trăng, trăng hóa nước
Lụa là ướt đẫm cả trăng thâu…
Cảnh và người trong hai khổ thơ này của Yến Lan cũng thế! Ông lái đò trong khoảnh khắc “để gió lén mơn râu” cũng là lúc đã muốn tan hòa bay bổng theo cơn gió nhẹ kia lên tận cung Quảng Hàn! Cái buồn của cảnh xâm nhập vào hồn người, khiến cho công việc “đợi khách” của ông lái đò chẳng qua chỉ là cái cớ mà thôi!
Khổ thứ ba hiện lên là một không gian và thời gian của cảm giác:
Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời nhưng chỉ giãi trăng, trăng…
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng…
Bắt đầu từ không gian này, mọi hiện hữu dường như là ảo ảnh, giao hòa cảm xúc với ngoại cảnh, ánh trăng dệt thành đường tơ, nối kết cảm giác ngui ngút của chiều quạnh, cái mênh mông rợn ngợp của đêm buồn… Không gian ấy ta từng gặp trong thơ Xuân Diệu: Sương nương theo trăng ngừng lưng trời – Tương tư nâng lòng lên chơi vơi (Nhị hồ). Không gian trăng của Yến Lan không có cái réo rắt của âm nhạc, mà vẫn cứ ngân nga một âm vọng thẳm sâu chính từ hình ảnh Tơ vương tròi nhưng chỉ giãi trăng, trăng…Để từ đó xuất hiện một bóng hình lữ khách:
Nhưng đêm kia đến một chàng kị mã
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi…
Tiếng gọi đò phá vỡ cái tĩnh lặng của bến sông Trăng – bến My Lăng có thật không? Chàng kị mã – áo ngọc lưu ly và ánh trăng vàng như quyện vào nhau làm ta hình dung chàng như bước ra từ cõi mộng, từ cổ tích hay phảng phất một dáng chinh phu đầy ám ảnh các nhà thơ thời “tiền chiến” như Lưu Trọng Lư, Thế Lữ từng nhắc tới. Nhưng ở thơ Yến Lan, tiếng “gọi đò, gọi đò như hối hả” mới thật sự là một ám ảnh, để chuyển hóa chất thơ từ lãng mạn sang tượng trưng:
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng…
Tôi đã từng đọc hồi ức nhà thơ kể về tuổi thơ bên bến sông Trường Thi quê nhà với ông cậu làm nghề chèo đò, một hồi ức buồn với nỗi đau của đứa bé mất đi người mẹ hiền hậu tảo tần. Phải chăng vì thế tiếng “gọi đò như oán trách, gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng” trong bài thơ như dư vang của cảm giác hụt hẫng bàng hoàng thời thơ ấu? Thực và mộng cứ đan xen trong ánh trăng ma mị, thoát tục tuyệt đối khi ông lão “để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng” để hòa vào những sợi tơ trăng. Nỗi niềm nào đọng lại trong điệp khúc gọi đò, không thể kéo thuyền hồn trở về cùng bến My Lăng, trở về thực tại?
Bài thơ khép lại bằng một hình ảnh đậm chất cổ điển:
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng…
Không hiểu sao khi đọc hai câu thơ này, tôi lại mường tượng ra không gian của những ngôi nhà lá mái đặc trưng của Bình Định, bước vào trong những cánh cửa “bàn pha” theo cách nói của dân xứ Nẫu, người ta thường gặp những bức sơn mài trên vách theo chủ đề “ngư tiều canh mục”. Bức sơn mài có con thuyền chống sào, ngư ông say ngủ thường có đôi câu thơ chữ Hán rất điển hình trong những nhà có người theo đuổi nghiệp bút nghiên khoa cử thời phong kiến, muốn lánh xa cái ồn ào của thế nhân, như lời thơ Cao Bá Quát:
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu.
( Thế cuộc thăng trầm người chớ hỏi, Miền sâu khói sóng có làng câu. )
(Tiêu sầu tửu 2)
Có mối liên hệ nào không giữa người cậu lái đò bến Trường Thi – ông lái đò say trăng bến My Lăng và thuyền câu khói sóng trong những bức sơn mài của một thời xưa cũ? Chỉ biết rằng hai câu thơ khép lại BẾN MY LĂNG cũng đã gieo lại trong lòng người yêu thơ một nỗi buồn lan tỏa cùng ánh trăng lạnh, tạc nên hình ảnh bất tử của một bến My Lăng hư ảo thấm đẫm tâm trạng.
Và cũng thật bất chợt, tôi tự hỏi: không biết bây giờ, anh hồn của thi sĩ đang vương vấn cùng ánh trăng bàng bạc, có trở về thăm lại bến Trường Thi, thuyền hồn ông lái đò neo đậu nơi nào ở bến My Lăng?
28.2.2016
T.H.N

Ngẫm thêm về Chí Phèo

Khi tiếp cận truyện “Chí Phèo” của Nam Cao, lâu nay trong nhà trường thường chỉ tập trung vào giá trị nhân đạo của truyện ngắn này,với bi kịch bị tước đoạt nhân tính lẫn nhân hình, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Đứng từ quan điểm đấu tranh giai cấp, xem xét tính điển hình hóa của nhân vật trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời thực dân nửa phong kiến, để rồi cuối cùng kết luận nghiêng về phê phán tố cáo xã hội – lên án bà cô Thị Nở, đại diện cho thành kiến xã hội và tố cáo Bá Kiến – đại diện tầng lớp cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng, bênh vực cho người nông dân bị bần cùng hóa và lưu manh hóa, cổ vũ khuyến khích tinh thần tức nước vỡ bờ và khát khao hướng thiện của con người… Cách tiếp cận ấy mới chỉ là một phía, chưa toàn diện bức thông điệp mà Nam Cao muốn gửi gắm.
Thực tế, tác phẩm của Nam Cao có một cách tiếp cận khác, phong phú hơn, đa dạng hơn, không chỉ dừng lại ở tiếp cận nhân vật loại hình mà nhân dân đã nhận ra giá trị vượt thời gian, không gò trong khuôn hình xã hội nhất định. Người ta nói đến “tính cách Chí Phèo” ở những kẻ lưu manh chuyên phá làng phá xóm, phá hoại sự yên bình của cộng đồng, quấy rối cuộc sống những người lương thiện. Người ta cũng có những câu truyền miệng dân gian, nâng nhân vật của Nam Cao lên một tiêu chí đánh giá đẹp – xấu, như: “Trông xa thì tưởng Thúy Kiều – Lại gần thì hóa người yêu Chí Phèo”. Cách tiếp cận ngoài định hướng đem lại nhiều khám phá nhưng dường như chưa được nói đến nhiều trong nhà trường. Và như vậy, trong nhà trường, tác phẩm đã bị hạ thấp một phần giá trị nhân sinh, tầm nhân loại…
Cách tiếp cận này đã dẫn đến sự ra đời của những tác phẩm phái sinh từ Chí Phèo của Nam Cao, chẳng hạn như bài thơ độc đáo “Nỗi niềm Thị Nở” của nhà thơ Quang Huy:
Người ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi nào dở hơi gì
Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình
Làng này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh chửi đổng suốt ngày
Chỉ mình em biết anh say rất hiền
Anh không nhà cửa bạc tiền
Không ưa luồn cúi không yên phận nghèo
Cái tên mơ mộng Chí Phèo
Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao
Quần anh ống thấp ống cao
Làm em hồn vía nao nao đêm ngày
Khen cho con Tạo khéo tay
Nồi này thì úp vung này chứ sao
Đêm nay trời ở rất cao
Sương thì đẫm quá trăng sao lại nhoà
Người ta mặc kệ người ta
Chỉ em rất thật đàn bà với anh
Thôi rồi đắt lắm tiết trinh
Hồn em nhập bát cháo hành nghìn năm
Thực ra, cách tiếp cận của Quang Huy vẫn rất gần gũi, khi phát hiện vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở, sản phẩm của lòng nhân đạo Nam Cao, khi tạo ra người đàn bà “dở hơi” sánh với ông chỉ có một nghề “đập đầu, rạch mặt ăn vạ”. Quang Huy nhìn thấy cuộc gặp gỡ của “con vật ghê tởm nhất” và “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” đích thực là cuộc gặp của hai con người, có phần thi vị hóa Thị Nở và gán cho nhân vật này những suy nghĩ cảm xúc vượt ra khỏi mẫu hình mà Nam Cao dựng nên. Còn nhà thơ Lê Minh Quốc lại tìm thấy trong “Chí Phèo” một tri âm tri kỉ của văn nhân thi sĩ, trong bài thơ “Thư gửi Chí Phèo”:
Đêm nay uống rượu với vầng trăng
Ta chợt nhớ trái tim mình đơn độc
Như vó ngựa bốn mùa reo lốc cốc
Ôi ta đau khi nhớ gã Chí Phèo
Thị Nở đâu rồi để chăn chiếu mốc meo
Gió lùa vào căn phòng ta nghiệt ngã
Đốt bản thảo thơ sưởi lòng đêm lạnh giá
Ngọn lửa này có nấu chín nồi cơm?
Chí Phèo ơi, ta muôn thuở biết ơn
Cái đói của anh – thời quay quắt đói
Cái ngang tàng dám cầm dao rạch mặt
Của chính anh – khi đi giữa chợ đời
Uống rượu say không gọi: Thế nhân ơi
Ta khật khưỡng chỉ gọi: – Ơi Thị Nở
Bát cháo hành suốt đời ta mắc nợ
Còn bập bềnh trôi nổi giữa vần thơ…
Ơi gã Chí Phèo của cổ-tích-hôm-qua
Ngang ngược nói, cười, chửi trời, chửi đất
Cái đói eo sèo, cái buồn mửa mật
Trăng cũng xanh xao lay lắt cuộc đời thừa
Rượu uống say rồi sao ta lại chưa bưa
Như Chí Phèo đòi làm người Lương Thiện?
Ta chỉ cần Công Bằng mà vần thơ đau điếng
Lời vừa buông ra là máu bật bờ môi
Rượu uống say rồi ta gọi Chí Phèo ơi
Nếu sống giữa ngày này thì anh sẽ sống
Như kẻ thất thời? Như người lỡ vận
Như gã làm thơ viết bằng máu của mình?
1988
Bài thơ viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam đổi mới, có nhiều trăn trở trước những giá trị xã hội đảo lộn, thể hiên khao khát một lẽ Công Bằng, một cách “mượn” nhân vật để tự bạch. Nhưng cách tiếp cận này cũng vẫn nằm trong một mạch thế sự nhân sinh của văn học sau đổi mới, một cách “làm mới” nhân vật của Nam Cao bằng cách vận vào theo kiểu Nguyễn Du đồng cảm với Tiểu Thanh thuở xưa!
Người đầu tiên tiếp cận Chí Phèo của Nam Cao như một kiểu người, mẫu người sống dai dẳng vượt qua khuôn khổ xã hội cũ có lẽ là Nguyễn Minh Châu, “người mở đường tinh anh” của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm chân dung văn học “Nam Cao” của ông đã vẽ lại một Chí Phèo đi lính cho Tây, vẫn nguyên bộ dạng lưu manh, có thêm vũ khí là khẩu súng trong tay. Chính loại Chí Phèo ấy đã hạ sát Nam Cao. Nguyễn Minh Châu đã đưa ra một cảnh báo về sự tồn tại của cái xấu cái ác vẫn dai dẳng, vượt quá những mong muốn về hành trình hướng thiện mà sinh thời Nam Cao từng xây dựng nên. Điều này cũng rất chính xác với cảnh báo của Nam Cao trong phần vĩ thanh của tác phẩm: “tre già măng mọc…” trong lời dân làng Vũ Đại và biểu tượng về sự trở lại của “cái lò gạch cũ”!
Từ cách tiếp cận này của Nguyễn Minh Châu, nên chăng trong quá trình giảng dạy, chúng ta cần tập trung nhiều hơn vào quá trình tha hóa của Chí Phèo. Không chỉ phân tích theo hướng “con người là sản phẩm của xã hội” để đi đến kết luận sự tha hóa của Chí là do cơn ghen Bá Kiến – nhà tù thực dân – làng Vũ Đại với thế “quần ngư tranh thực”… một cách đơn giản. Cũng không thể đổ thừa mọt cách ngây thơ là rượu đã hủy hoại lý trí và cảm xúc của Chí. Bởi trong thực tế cuộc sống, chúng ta thấy có nhiều kẻ không uống rượu nhưng hành xử đúng là “Chí Phèo hiện đại”. Nam Cao đã phát hiện ra quy luật tha hóa nằm trong sự tự nhận thức của Chí: lần đầu đối mặt với cường quyền, Chí bị đưa vào thiên la địa võng, mê hồn trận của Bá Kiến để rồi sau đó cầm trên tay 1 đồng cơm thuốc, tự cảm nhận mình “oai hơn một bậc”; sau đó, khi được dẫn dụ đòi nợ đội Tảo và bất ngờ thành công, Chí vênh vang tự đắc “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”! Đó là tiền đề cho sự tha hóa được báo trước như một tất yếu. Chả khác nào những Chí Phèo đời nay là mấy! Chí của Nam Cao là một nhân vật đa nhân cách, hạn chế về nhận thức dẫn đến bước trượt dài, bị lợi dụng, bị sai khiến nhưng ngay cả khi lương tâm thức tỉnh, Chí vẫn bị dẫn dụ bởi động cơ trả thù kiểu lưu manh. Ý định “đâm chết cả nhà con đĩ Nở, đâm chết con khọm già nhà nó” chuyển hóa thành hành động vung dao lên hạ sát Bá Kiến và tự sát vẫn là một hành xử đúng chất Chí Phèo. Kết cục chả giải quyết được gì ngoài sự mất mát trắng tay! Tất nhiên, Chí của Nam Cao không thể có lựa chọn khác, nhưng dường như trong đời sống hiện đại, nhiều kẻ không say sưa như Chí, bằng cấp cũng tầm đại học, nhưng vẫn để cho những toan tính uất ức cá nhân làm cho lu mờ lý trí, hành xử chẳng khác Chí Phèo. Có điều, Chí Phèo tự phát theo kiểu “người nông dân nổi giận”, còn hậu duệ của Chí thì lại có học hơn, tâm địa mưu mô lại tiếp thu từ “cụ Bá Kiến”, nên gian manh khó lường! Người đọc có thể tiếc cho 5 ngày làm người của Chí Phèo – Thị Nở trong truyện Nam Cao, nhưng liệu Thị Nở không dở hơi nhảy đổng lên “trút nguyên vẹn lời bà cô vào mặt Chí Phèo” như đổ dầu vào lửa, liệu cuộc đời Chí Phèo có khác?
2015
T.H.N

Tiếp tục đọc “Ngẫm thêm về Chí Phèo”